Các chuyên gia đánh giá, đây có thể là đợt ô nhiễm không khí "khủng khiếp" nhất tại Hà Nội từ trước đến nay. 6. Thực trạng xuất khẩu lao động chui: Hiện nay, thực trạng xuất khẩu lao động chui tại Việt Nam đang là một trong những thực trạng nhức nhối và không Luận văn nghiên cứu với các mục đích: nắm rõ thực trạng việc giảng dạy tiếng Anh ở các khoa không chuyên ngữ tại Trường Đại học Sư phạm -Thành phố Hồ Chí Minh, xác định nguyên nhân của thực trạng trên, đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý Với việc đổi được bằng lái xe Việt Nam qua bằng 125cc tại Nhật, quý anh chị có thể miễn được 100 câu lý thuyết khó nhằn khi muốn lên bằng ô tô . Tiết kiệm được rất nhiều chi phí cũng như thời gian học mới. Ngày Doanh nhân Việt Nam năm nay (13.10.2022), là tròn 10 năm thực hiện Nghị quyết 09 (năm 2011) của Bộ Chính trị về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam. thực trạng đất nước; Tiếng nói phản chiến ở Nga; Tiếng nói trí thức Việt Kiều góp phần Mặt khác, khối lượng đầu tư thấp từ Anh vào Việt Nam cho thấy các nhà đầu tư nước này còn chưa quan tâm đúng mức đến Việt Nam. Với thực tế này, Việt Nam cần nỗ lực ở tất cả các cấp để tận dụng tốt các cơ hội, thuận lợi trong quan hệ với đối tác chiến thực trạng của giáo dục mầm non (gdmn) hiện nay với mục tiêu là giúp trẻ em phát triển thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ, từ đó phát triển những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp một; đây là cơ sở hình thành ở trẻ em mang tính nền tảng, những kĩ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những … rMtZ9eC. Thực trạng là gì? Thực trạng tiếng Anh là gì? Tất cả những những băn khoăn này sẽ được TBT Việt Nam làm rõ qua nội dung bài viết sau đây. Mời Quý vị theo dõi Thực trạng là những phản ánh đúng tình trạng thực tế, trạng thái đã, đang xảy ra của sự vật, sự việc, con người tại một khoảng thời gian và không gian nhất định trong thực tế. Thông thường khi nhắc đến thực trạng người ta hay nói đến những điều không tốt, ám chỉ những điều tiêu cực nhiều hơn so với tích cực. Ví dụ + Thực trạng quan liêu, tham nhũng trong những năm gần đây của Việt nam xảy ra rất nhiều. + Vấn đề ô nhiễm môi trường hiện đang là thực trạng dẫn đến việc bầu không khí không còn trong lành như trước. >>> Tham khảo Tham khảo tiếng Anh là gì? Thực trạng tiếng Anh là gì? Thực trạng tiếng Anh là Reality/ real situation/ real state of affairs. Ngoài ra thực trạng còn được dịch sang tiếng Anh như sau Reality is a true reflection of the actual, actual, happening state of things, events and people at a given time and space in reality. >>> Tham khảo Biên bản tiếng Anh là gì? Một số từ tương ứng với thực trạng tiếng Anh là gì? Trong hoạt động giao tiếp hàng ngày thì nhiều người thay vì sử dụng cụm từ thực trạng tiếng Anh thì mọi người có thể sử dụng các từ cũng có nghĩa tương ứng, liên quan khi nhắc đến thực trạng như + Condition/ situation/ state/ status Được dịch sang tiếng Việt nghĩa là tình trạng + Actual/ reality/ fact Được dịch sang tiếng Việt nghĩa là thực tế + Situation/ juncture Được dịch sang tiếng Việt nghĩa là tình hình + Nowadays Được dịch sang tiếng Việt nghĩa là Hiện nay + Status quo Được dịch sang tiếng Việt nghĩa là Hiện trạng + Truth Được dịch sang tiếng Việt nghĩa là Sự thật + State Được dịch sang tiếng Việt nghĩa là trạng thái + Actually Được dịch sang tiếng Việt nghĩa là thực ra. >>> Tham khảo Giấy giới thiệu tiếng Anh là gì? Ví dụ đoạn văn có sử dụng từ thực trạng tiếng Anh viết như thế nào? Dưới đây sẽ là một số ví dụ về các đoạn văn có sử dụng từ thực trạng tiếng Anh để mọi người tham khảo như; Ví dụ 1 At middle and high schools, there is an alarming risk that the Ministry of Education must take timely measures to overcome this situation. The first is the prevalence of school violence, the situation of students gathering at school gates intercepting other students. Secondly, the situation of students riding electric bicycles in zigzag traffic without a helmet. Được dịch sang tiếng Việt như sau Tại các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông xảy ra một nguy cơ đáng báo động cần bộ giáo dục phải có biện pháp kịp thời để khắc phục thực trạng này. Thứ nhất là thực trạng phổ biến bạo lực học đường, tình trạng các học sinh tụ tập ở cổng trường chặn đánh các học sinh khác. Thứ hai thực trạng học sinh đi xe đạp điện tham gia giao thông lạng lách không đội mũ bảo hiểm. Ví dụ 2 Situation of environmental pollution is happening more and more, especially in big cities and provinces, concentrated in industrial parks and developed urban areas such as Hanoi, Ho Chi Minh, Binh Duong, Nha Trang … Được dịch sang tiếng Việt nghĩa là Thực trạng ô nhiễm môi trường xảy ra ngày càng nhiều, nhất là ở các tỉnh thành phố lớn, tập trung nhiều khu công nghiệp, đô thị phát triển như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Bình Dương, Nha Trang… Ví dụ 3 Reality the complicated situation of the covit19 epidemic, every citizen needs to pay attention to protect their health by avoiding crowding in public places, wearing masks when going out and using hand washing water regularly. Được dịch sang tiếng Việt nghĩa là Trước thực trạng dịch bệnh covit19 diễn ra phức tạp, mỗi người dân cần chú ý tự bảo vệ sức khỏe của mình bằng việc tránh tụ tập đông người các nơi cộng cộng, thực hiện đeo khẩu trang khi ra ngoài và sử dụng nước rửa tay thường xuyên. >>> Tham khảo Đồng hành tiếng Anh là gì? Bài viết trình bày nghiên cứu khảo sát việc sử dụng tiếng Anh trong thể loại ngôn bản đặc biệt biển hướng dẫn du lịch. Dữ liệu cho nghiên cứu là 203 biển hướng dẫn được thu thập từ 8 điểm du lịch tại miền Bắc Việt Nam. Các biển này được khảo sát về chất lượng nói chung về khả năng nhận diện, mức độ thân thiện với người dùng về ngôn ngữ, thiết kế, minh họa, các biển đa ngữ được khảo sát cụ thể về chất lượng nội dung tiếng Anh. Kết quả phân tích cho thấy phần sử dụng Anh trong biển hướng dẫn tại các khu du lịch Việt Nam còn gặp phải một số vấn đề về chính tả, ngữ pháp, các vấn đề về lựa chọn từ vựng, các vấn đề về mức độ đầy đủ nội dung của bản dịch, và vấn đề về ngữ dụng và phong cách dịch. Dựa trên những kết quả khảo sát này, nhóm tác giả có những thảo luận và đề xuất để cải thiện thực trạng sử dụng tiếng Anh trong các biển hướng dẫn du lịch tại Việt Nam. Discover the world's research25+ million members160+ million publication billion citationsJoin for free Tạp chí Nghiên cu Nưc ngoi, Tp 33, S 2 2017 90-10490Ngày nay, trong các ngôn bản có đối tượng người đọc, người nghe đa dạng và có tính quốc tế cao như các biển hướng dẫn, chỉ dẫn công cộng, việc s dụng nhiều hơn một ngôn ngữ là cần thiết. Các biển hướng dẫn, chỉ dẫn song ngữ, thậm chí là đa ngữ ngày càng trở nên phổ biến. Với vai trò là ngôn ngữ quốc tế, tiếng Anh luôn được lựa chọn là ngoại ngữ được s dụng số một trên các biển hướng dẫn, chỉ dẫn. Trong du lịch – một ngành thuộc lĩnh vực kinh doanh đặc thù mang tính đa ngôn ngữ và đa văn hóa, ngôn ngữ nói chung và ngoại ngữ nói riêng đóng vai trò quan trọng và mang một tiềm năng đặc biệt không chỉ là công cụ truyền tải văn hóa, ngôn ngữ còn là cầu nối giữa khách du lịch và người/ doanh nghiệp du * Tác giả liên hệ. ĐT. 84-989669422 Email tamntm1982 Nghiên cứu được thực hiện trong khuôn khổ đề tài địa phương, là phương tiện hiệu quả để lôi cuốn và thu hút khách du lịch. Tuy nhiên, việc s dụng tiếng Anh cũng như các ngoại ngữ khác trong các biển hướng dẫn du lịch nhằm đối đa hóa hiệu quả của các biển hướng dẫn này còn ít được quan tâm nghiên cứu. Biển hiệu và biển hướng dẫnThuật ngữ biển hiệu ở bài báo này được dịch từ thuật ngữ sign trong tiếng Anh, một thuật ngữ được hiểu với nhiều nghĩa khác nhau. Theo Saussures 1983 và Pierce 2007, sign được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tất cả những tồn tại dạng âm thanh, hình ảnh, mùi vị tạo cho con người cảm nhận, từ đó hình thành khái niệm về những sự vật hiện tượng gn với những cảm nhận đó. Trong cuộc sống hàng ngày, sign được hiểu là bất cứ cấu trúc/ sự kết Nguyễn Thị Minh Tâm*, Nguyễn Diệu Hồng, Trần Thị LongTrường Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN, Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt NamNhận bài ngày 10 tháng 2 năm 2017 Chỉnh sa ngày 21 tháng 3 năm 2017; Chấp nhận đăng ngày 22 tháng 3 năm 2017 Bài viết trình bày nghiên cứu khảo sát việc s dụng tiếng Anh trong thể loại ngôn bản đặc biệt biển hướng dẫn du lịch. Dữ liệu cho nghiên cứu là 203 biển hướng dẫn được thu thập từ 8 điểm du lịch tại miền Bc Việt Nam. Các biển này được khảo sát về chất lượng nói chung về khả năng nhận diện, mức độ thân thiện với người dùng về ngôn ngữ, thiết kế, minh họa, các biển đa ngữ được khảo sát cụ thể về chất lượng nội dung tiếng Anh. Kết quả phân tích cho thấy phần s dụng Anh trong biển hướng dẫn tại các khu du lịch Việt Nam còn gặp phải một số vấn đề về chính tả, ngữ pháp, các vấn đề về lựa chọn từ vựng, các vấn đề về mức độ đầy đủ nội dung của bản dịch, và vấn đề về ngữ dụng và phong cách dịch. Dựa trên những kết quả khảo sát này, nhóm tác giả có những thảo luận và đề xuất để cải thiện thực trạng s dụng tiếng Anh trong các biển hướng dẫn du lịch tại Việt khóa biển công cộng, biển hướng dẫn du lịch, biển song ngữ, lỗi dịch thuật Tâm, Hồng, Long / Tạp chí Nghiên cu Nưc ngoi, Tp 33, S 2 2017 90-104 91hợp nào được thiết kế nhằm thể hiện thông tin theo dạng nhìn được/ đọc được hướng tới một đối tượng người đọc/ xem cụ thể, thường đặc trưng là các thông tin chỉ dẫn, hỗ trợ giúp người đọc/ người xem thu nhận được thông tin cần thiết, cụ thể ví dụ tìm đường tới nơi cần đến. Như vậy khái niệm signs thường được đồng hóa với khái niệm signboard - biển hiệu, có hình dạng và kích cỡ đa dạng, bao gồm các loại như dạng biểu ngữ, biển tại ca hàng billboard, tranh tường murals, đến biển chỉ dẫn, hướng dẫn thông tin trên đường phố, đường đi trong các khu tham quan, công viên, thảm cỏ, và có thể là biển hiện đại với các hình ảnh kỹ thuật số, như một số ví dụ dưới đây.   Hình 1. a. Biển cấm b. Biển tại khu mua sm c. Biển chào d. Biển chỉ đườngTrong giao thông đường bộ, biển hiệu được s dụng gồm 5 nhóm biển báo, biển báo nguy hiểm, biển hiệu lệnh, biển chỉ dẫn, biển phụ để thuyết minh bổ sung các loại biển báo cấm, biển báo nguy hiểm, biển hiệu lệnh và biển chỉ dẫn Luật Giao thông đường bộ 2008. Đặc thù của các biển hiệu này là biển có tính pháp lý cao; việc không tuân thủ, thực hiện có thể làm cho chủ phương tiện phải đối mặt với các mức x lý quy định trong luật. Vì vậy, trong bài báo này, chúng tôi tạm phân loại các biển hiệu này là “biển mệnh lệnh”.Biển hiệu trong các lĩnh vực khác của cuộc sống xã hội, như biển nội quy trong các khu dân cư, khu công nghiệp, biển chỉ dẫn tại tổ hợp mua sm, hầu như ít có tính pháp lý bằng biển báo giao thông, do được dùng chủ yếu với mục đích chỉ dẫn việc di chuyển, thuyết minh, hướng dẫn cách s dụng, đôi chỗ có biển cấm hoặc biển nội quy nhưng chủ yếu mang tính hướng dẫn những điều nên hoặc không nên làm, không có tính bt buộc cao như biển cấm hay biển hiệu lệnh trong giao thông không tuân thủ sẽ bị các cơ quan chức năng x lý theo các mức độ khác nhau. Trong bài báo này, các biển hiệu được dùng trong các mục đích thuyết minh, hướng dẫn như vậy được gọi chung với tên “biển hướng dẫn” ít mang tính pháp lý, chủ yếu dùng để chỉ dẫn, thuyết minh, hỗ trợ để phân biệt với “biển mệnh lệnh” mang tính pháp lý, chủ yếu dùng trong giao thông, là hiệu lệnh mà các phương tiện giao thông phải tuân thủ, không được vi phạm trong quá trình lưu thông. Vai trò của biển hướng dẫn trong du lịch“Du lịch là sự chinh phục không gian của những người đến một địa điểm mà ở đó họ không có chỗ cư trú “thường xuyên” Glusman 1930, dẫn theo Huỳnh Thị Trúc Giang 2012. Theo Luật Du lịch năm 2005, du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định. Hoạt động du lịch là hoạt động của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch, cộng đồng dân cư và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến du lịch. Biển hướng dẫn du lịch tourism signs có mặt ở khp mọi nơi trong và gần các khu du lịch với nhiều chức năng khác nhau. Thông thường, mỗi biển hướng dẫn sẽ có chức năng truyền tải một thông điệp cụ thể, ví dụ như Tạp chí Nghiên cu Nưc ngoi, Tp 33, S 2 2017 90-10492biển chỉ dẫn việc tham quan, di chuyển trong khu du lịch, biển thông tin thuyết minh về điểm du lịch hay chú thích về hiện vật trưng bày, biển nội quy quy định những điều được khuyến khích và bị khuyến cáo, Theo Stone và Vaugeois 2007, biển hướng dẫn đóng vai trò quan trọng trong ngành du lịch vì, cùng với các kênh cung cấp thông tin du lịch khác như bản đồ, sách hướng dẫn, trạm cung cấp thông tin, trang tin, hướng dẫn viên du lịch, các biển hướng dẫn thực hiện chức năng như một hướng dẫn viên du lịch hoạt động liên tục không hạn định. Có thể nói loại hình biển hiệu này đóng vai trò như một hướng dẫn viên du lịch đề xuất các điểm đến các biển báo hiệu sp đến khu du lịch chạy dọc theo các cao tốc, tỉnh lộ, hay phố xá, đường nội bộ, cung cấp thông tin sơ bộ về điểm du lịch, chỉ dẫn đường đi và dịch vụ, nhc nhở về nội quy. Theo Stone và Vaugeois 2007, biển hướng dẫn du lịch có tiềm năng thực hiện 3 chức năng lớn khuyến khích khách du lịch và khách thăm quan ghé thăm khu du lịch, cải thiện trải nghiệm của du khách tại khu du lịch, và khuyến khích, tăng số lần ghé thăm của du Biển hướng dẫn du lịch như một loại hình ngôn bản đặc biệtDiễn ngôn dùng trong du lịch là một thể loại ngôn bản đặc biệt và đã được phân tích trong một số nghiên cứu như Gotti 2006, Francesconi 2007, và Maci 2012. Trong các loại hình ngôn bản dùng trong du lịch, biển hướng dẫn đặc biệt hơn cả với một số lý do saui Biển hướng dẫn du lịch đa phần s dụng ngôn ngữ làm công cụ để chỉ dẫn, cung cấp thông tin, hướng dẫn nhưng do bị bó hẹp trong không gian của biển hiệu nên dung lượng ngôn ngữ thường rất ít, thông tin cần cô đọng; ii Biển hướng dẫn du lịch cũng là ngôn bản với đối tượng người đọc, người xem đa dạng về lứa tuổi, học vấn, sở thích, mục đích chuyến đi và nền văn hóa, vì vậy được yêu cầu mang tính phổ quát cao, thông tin cần chi tiết, rõ ràng, cụ thể, hấp dẫn;iii Biển hướng dẫn du lịch, ngoài nhiệm vụ chỉ dẫn, cung cấp thông tin, hướng dẫn, còn đóng vai trò thành phần cấu thành nên khu du lịch. Vì vậy biển hiệu du lịch cũng cần đáp ứng chuẩn chung của ngành du lịch về cấu trúc cũng như nội dung thông tin. Ngoài ra, mỗi khu du lịch lại có thể có những quy định riêng về thể thức trình bày các biển hướng dẫn trong và liên quan tới khu du lịch sao cho tăng chất lượng cảnh quan, dịch vụ, tạo điểm nhấn theo đúng mong muốn của nhà cung cấp dịch vụ du những đặc thù này, đặc điểm chung của biển hướng dẫn du lịch là ngôn ngữ súc tích nhưng cụ thể, chi tiết, diễn đạt dễ hiểu, được minh họa để dễ tiếp nhận, tuân thủ theo những quy chuẩn chung của ngành du lịch và đặc thù của khu du Nghiên cứu ngôn ngữ sử dụng trong biển hướng dẫn du lịch từ góc độ ký hiệu họcNhư đã đề cập ở trên, biển hướng dẫn du lịch là một ngôn bản đặc biệt tồn tại dưới dạng biển hiệu, với sự kết hợp giữa nhiều yếu tố ngôn ngữ, kết cấu, hình dạng, kích cỡ, màu sc, hình ảnh minh họa, ký hiệu nhằm thực hiện chức năng truyền tải một thông điệp, ý nghĩa tới đối tượng được hướng tới, ở đây là du khách tới các khu du lịch. Việc khảo sát, phân tích loại ngôn bản này vì thế không thể bỏ qua bất cứ yếu tố nào trong các yếu tố trên. Do vậy, các nghiên cứu về loại hình ngôn bản là các biển hướng dẫn du lịch cần một cách tiếp cận mang tính toàn diện, khái quát hơn là chỉ đơn thuần phân tích ngôn ngữ. Tâm, Hồng, Long / Tạp chí Nghiên cu Nưc ngoi, Tp 33, S 2 2017 90-104 93Được khởi xướng bởi Ferdinan de Saussure với khái niệm semiotics được thảo luận trong cuốn Course in General Linguistics năm 1916, tiếp nối và phát triển bởi các học giả như Charles Sanders Pierce, Roland Barthes và các học giả khác từ thập kỷ 60 của thế kỷ trước, đường hướng nghiên cứu theo lý thuyết ký hiệu học được dần khẳng định là cách tiếp cận phù hợp trong các nghiên cứu về văn hóa xã hội hoặc các nghiên cứu có đề cập tới các yếu tố văn hóa xã hội trong việc s dụng ngôn ngữ. Theo đó, các nhà nghiên cứu theo đường hướng này không phân tích ngôn ngữ được s dụng như một thực thể tồn tại độc lập với các yếu tố xung quanh mà tập trung phân tích ngôn ngữ s dụng trong tương tác với các yếu tố khác đi kèm trong ngôn bản. Như vậy, cách tiếp cận này cho phép các nhà nghiên cứu phân tích ý nghĩa của ngôn bản thông qua một hệ thống truyền tải ý nghĩa gồm nhiều thành phần kết hợp, tương hỗ với nhau ngôn ngữ, hình ảnh, ký hiệu, màu sc, tức là tất cả các yếu tố tồn tại trong và liên quan đến ngôn bản đều được coi là có vai trò truyền thông tin và cần được phân tích. Để phù hợp với sự phát triển của công nghệ trong giao tiếp và truyền thông, đường hướng phân tích này được tiếp tục kế thừa và phát triển bởi các nhà ngôn ngữ học chức năng hệ thống, điển hình là Kress và van Leuwen với khái niệm đa phương tiện multimodality trong phân tích diễn ngôn được thảo luận trong cuốn Multimodal Discourse năm 2001 và trong các sách và công trình nghiên cứu sau này. Với cách tiếp cận đa phương tiện, các phân tích ngôn ngữ được hỗ trợ thêm bởi những yếu tố s dụng hỗ trợ trong giao tiếp và truyền thông hiện đại như hiệu ứng âm thanh, ánh sáng, góc máy, Tuy nhiên, do nghiên cứu khảo sát việc s dụng tiếng Anh trên biển hướng dẫn du lịch là đối tượng tĩnh, không yêu cầu sự kết hợp nhiều của các phân tích đa phương tiện hiện đại, chúng tôi lựa chọn đường hướng phân tích ký hiệu học cho nghiên cứu này. Ngoài ra, đứng từ góc độ một nghiên cứu ngôn ngữ với trọng tâm khảo sát, phân tích việc s dụng ngôn ngữ trong biển hiệu, việc phân tích và kết quả nghiên cứu tập trung chủ yếu dựa trên khảo sát phần ngôn ngữ trên biển hiệu, các yếu tố còn lại đóng vai trò hỗ trợ cho các phân tích ngôn ngữ.Với số lượng khách quốc tế chiếm tỷ lệ ngày càng cao, việc s dụng ngoại ngữ đóng vai trò quan trọng trong du lịch, cụ thể là hỗ trợ du khách quốc tế di chuyển, khám phá khu du lịch, tăng cường khả năng du khách khai thác dịch vụ. Có thể nói, biển hướng dẫn song ngữ và đa ngữ có vai trò là công cụ giao tiếp hữu ích, thuận tiện giúp du khách nước ngoài có trải nghiệm du lịch tốt hơn tại các địa điểm tham quan. Để đạt được mục đích này, chất lượng nội dung ngoại ngữ trên biển hướng dẫn du lịch cần được lưu ý khi xây dựng hệ thống biển hướng Skibitska 2015, các học giả đã nghiên cứu về việc s dụng ngoại ngữ trong du lịch, và nhiều học giả trong số đó như Duff 1981, Newmark 1993 và Snell-Hornby 1999 đánh giá chất lượng dịch các ngôn bản du lịch ra ngoại ngữ còn chưa tốt. Ngoài việc phân tích những hạn chế, khó khăn mà các dịch giả đang gặp phải trong việc dịch thuật các ngôn bản du lịch, đặc biệt là chuyển dịch các thuật ngữ sang ngoại ngữ, một số học giả như Luo và Li 2006, Ko 2010, Mu oz 2012, Datjerdi và Abdolmaleki 2013 xác định các vấn đề xuất hiện trong phần dịch các ngôn bản du lịch ra ngoại ngữ. Các nghiên cứu đã s dụng các Tạp chí Nghiên cu Nưc ngoi, Tp 33, S 2 2017 90-10494cách khác nhau để phân loại vấn đề xuất hiện khi dùng ngoại ngữ trên biển hướng dẫn du lịch. Tựu chung, các nghiên cứu đều cho thấy thực trạng s dụng ngoại ngữ gặp nhiều vấn đề từ lỗi chính tả, ngữ pháp, lựa chọn từ, đến tình trạng dịch thiếu, lặp, sai phong cách, Việt Nam, du lịch là một ngành đang trên đà phát triển mạnh trong xu thế hội nhập quốc tế. Để đáp ứng nhu cầu phát triển này, các nghiên cứu về các lĩnh vực thuộc ngành du lịch đã có nhiều nhưng còn chưa nhiều các nghiên cứu phân tích ngôn ngữ trên các ngôn bản du lịch, cụ thể việc phân tích việc dùng ngoại ngữ trong các biển hướng dẫn du lịch như một thể loại diễn ngôn chưa được thực hiện. Việc khảo sát thực trạng s dụng tiếng Anh trong các biển hướng dẫn du lịch nhằm chỉ ra những ưu điểm và hạn chế, từ đó có những đề xuất cải tiến là một trong những nỗ lực cần thiết góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch.             Thu thập và phân tích dữ liệuDữ liệu thu thập cho nghiên cứu này là 203 biển hướng dẫn du lịch được chụp ảnh tại 8 điểm du lịch khác nhau tại miền Bc Việt Nam. Các điểm du lịch này được chọn ngẫu nhiên theo tiêu chí được xây dựng, đầu tư tương đối tốt để đáp ứng và thu hút nhu cầu du lịch của khách trong và ngoài nước. Trong 8 điểm du lịch này, 3 điểm là di tích lịch s văn hóa, 3 điểm thuộc loại khu du lịch có thng cảnh tự nhiên, và 2 điểm thuộc loại hình du lịch trải nghiệm văn hóa, xã hội tại địa lý thuyết dùng để phân tích các vấn đề về dịch thuật trong các biển hướng dẫn du lịch trong nghiên cứu này là sự kết hợp của i Khung phân loại biển hướng dẫn du lịch dựa trên cách phân loại biển hiệu của Stone và Vaugeois 2007;ii Khung phân tích các vấn đề về dịch thuật dựa trên cách phân loại của Mu oz 2012 và Keshavarz 1993, dẫn theo Datjerdi và Abdolmaleki 2013, phân chia các vấn đề gặp phải trong phần tiếng Anh theo 4 cấp độ chính tả và ngữ pháp, lựa chọn từ vựng, mức độ đầy đủ nội dung dịch thuật, ngữ dụng và phong cách ngôn ngữ;Bảng 1. Khung phân tích các vấn đề về dịch thuật dựa trên Munoz 2012 và Keshavarz 1993VẤN ĐỀ MÔ TẢVấn đề về chính tả, ngữ pháp+ lỗi chính tả, dấu câu+ cách trình bày ngôn ngữ viết hoa hay viết thường không đồng nhất+ lỗi ngữ pháp, dạng thức từ word form Vấn đề về lựa chọn từ vựng từ và cấu trúc+ dùng từ, cấu trúc thiếu thông nhất trong cùng ngôn bản+ chọn từ, cấu trúc không chính xác do không hiểu bản chất+ chọn từ, cấu trúc không rõ nghĩa từ đa nghĩa, đồng âm khác nghĩa, không rõ sở chỉ Vấn đề về nội dung dịch+ dịch thiếu+ dịch lặp+ dịch thừaNgữ dụng và phong cách ngôn ngữ+ dịch quá thiên nghĩa đen, dịch từng từ word-for-word+ phần tiếng Anh không truyền tải hết mọi lớp nghĩa trong tiếng Việt+ dịch sai phong cáchiii Ngoài ra, khung phân tích các vấn đề về dịch thuật trên đây còn được hỗ trợ bởi khung phân tích các yếu tố về kết cấu, thiết kế và minh họa như kích cỡ, hình dạng, màu sc, và hình ảnh minh họa, cách bố trí các ngôn ngữ trong các biển hướng dẫn dựa trên khung lý thuyết của Morris 1964 về phân tích ý nghĩa các biển hiệu, mô hình phân tích ký hiệu s dụng trong quá trình thiết kế hình ảnh của Hartman và Vossebeld’s 2013. Các yếu tố này được phân tích theo mức độ hỗ trợ du Tâm, Hồng, Long / Tạp chí Nghiên cu Nưc ngoi, Tp 33, S 2 2017 90-104 95khách trong việc hiểu bản dịch, chia thành 3 mức độ tăng dần nhận diện được, hiểu được, phản hồi được.Hình 2. Khung phân tích các vấn đề về s dụng tiếng Anh trên biển hướng dẫn du Phân tích và thảo luận203 biển hướng dẫn du lịch ở Việt Nam có thể được phân chia thành 5 loại i biển chào welcome/entrance sign – 13 biển, ii biển thông tin, chú thích information sign, notice boards – 71 biển, iii biển chỉ dẫn direction signs – 52 biển, iv biển nội quy regulation signs – 36 biển, và v biển dịch vụ service signs – 31 biển. Đa phần các biển hướng dẫn có kích cỡ đáp ứng nhu cầu đọc thông tin, không có biển nào không thể nhận diện được. Ở các khu du lịch mới được xây dựng, tu sa lại, các biển có tính đồng nhất cao về màu sc nền, kích cỡ, kiểu chữ và cấu trúc. Biển hướng dẫn tại các khu du lịch đã xây dựng từ lâu nhìn chung ít có tính thống nhất do được bổ sung, lp đặt thêm vào các thời điểm khác nhau, có thể có nhiều biển truyền tải thông tin chồng chéo nhau đặt cùng một nơi khá rối mt và khó hiểu. Nhìn chung, các biển có nội dung phù hợp với chức năng, phần ngôn ngữ kết hợp với thiết kế và minh họa giúp du khách Việt Nam hiểu các thông tin từ đó có những phản hồi theo hướng dẫn trên biển ví dụ di chuyển đúng hướng, tìm được điểm cần đến, Đối với du khách nước ngoài, biển hướng dẫn du lịch cũng thực hiện được chức năng hỗ trợ nhờ sự xuất hiện của các biển song ngữ và đa ngữ. Tỷ lệ biển hướng dẫn có s dụng ngoại ngữ ở các khu du lịch mới được xây dựng, tu sa lại nhiều hơn so với các khu du lịch đã xây dựng từ lâu. Tại một số khu du lịch mới quy hoạch lại hệ thống biển hướng dẫn còn thể hiện phần ngoại ngữ ở kích cỡ nhỏ hơn và kiểu chữ, màu sc ít nổi bật hơn Hình 6.Khi xuất hiện ngoại ngữ kèm tiếng Việt, trừ trường hợp chỉ dùng tiếng Trung Quốc chú thích cho các hiện vật mang tính tâm linh, tiếng Anh hầu như luôn là ngoại ngữ được sp xếp, trình bày ở vị trí ngay sau tiếng Việt về mức độ quan trọng ngay bên dưới tiếng Việt và trên các ngoại ngữ khác, hoặc ngay bên phải tiếng Việt và bên trái các ngoại ngữ khác. Trong số 5 loại biển hướng dẫn du lịch, số biển có ngoại ngữ trong đó biển có tiếng Anh chiếm tổng số biển có s dụng ngoại ngữ. Loại biển có tần suất s dụng ngoại ngữ nhiều nhất là biển thông tin, chú thích biển có ngoại ngữ, trong đó là tiếng Anh và biển chỉ dẫn số biển có ngoại ngữ và đều là tiếng Anh. Đa phần các biển đều song ngữ hoặc đa ngữ, số biển hướng dẫn có hình minh họa pictogram đi kèm là rất ít, chỉ chiếm xấp xỉ 18% tổng số, không có biển nào chỉ chứa hình minh họa mà không có ngôn ngữ. Số lượng biển hướng dẫn có tiếng Việt chiếm đa số 97%, 3% còn lại là những biển hoàn toàn bằng tiếng Anh, không có biển nào chỉ có tiếng Pháp hay tiếng Trung Quốc. Số lượng Tạp chí Nghiên cu Nưc ngoi, Tp 33, S 2 2017 90-10496biển có s dụng tiếng Anh hoặc các ngoại ngữ khác chiếm xấp xỉ 62%, chủ yếu thuộc loại biển chào, biển thông tin và biển chỉ dẫn. Như vậy có thể thấy, trong các biển đa ngôn ngữ, ngoại ngữ s dụng chủ yếu là tiếng Anh. Hình 3. Biển chỉ có tiếng Anh ở Việt NamHình 4. Biển song ngữ Anh - Việt ở Việt NamTrong các khu du lịch văn hóa lịch s nổi tiếng, được đầu tư do có nhiều du khách nước ngoài ghé thăm, ngoài tiếng Việt và tiếng Anh, một số biển có s dụng thêm tiếng Pháp chủ yếu là biển thông tin và nội quy. Tuy nhiên, khi được dùng để chú thích cho các hiện vật trưng bày phục vụ cho mục đích tâm linh, có một số biển không lựa chọn tiếng Anh hay Pháp mà chọn tiếng Trung Quốc như biển chú thích tượng tại các chùa, so sánh với biển hướng dẫn du lịch ở một số quốc gia phát triển Hình 5, số lượng ngôn ngữ trên biển hướng dẫn du lịch ở Việt Nam là tương đối nghèo nàn. Các biển quốc tế như minh họa ở Hình 5 có tới 4 hoặc 5 ngôn ngữ khác nhau kèm hình minh họa. Hình 5. Biển hướng dẫn du lịch quốc tế đa ngôn ngữCũng như các thể loại ngôn bản du lịch đã được nghiên cứu trong một số nghiên cứu khác, phần tiếng Anh biển hướng dẫn du lịch ở các khu du lịch ở Việt Nam cũng gặp một số vấn đề. Các biển có các vấn đề về s dụng tiếng Anh chiếm % tổng số biển có ngoại ngữ, nhiều biển có phần tiếng Anh với nhiều hơn 1 vấn đề trong số 4 vấn đề về chính tả, ngữ pháp, về lựa chọn từ, cấu trúc, về mức độ đầy đủ của nội dung dịch, và về ngữ dụng, phong cách ngôn ngữ. Cụ thể các vấn đề về tiếng Anh trên các biển hướng dẫn này như sauBảng 2. Số liệu tổng hợp về các vấn đề dịch thuật trên các loại biển hướng dẫn được khảo sátNgữ pháp, Chính tả10% 50% 15% 15% 10% 20Lựa chọn từ vựng 0% 14Nội dung đầy đủ 0% 0% 0% 100% 0% 3Ngữ dụng, phong cách0% 75% 0% 12 Thông tin, Số biển Tâm, Hồng, Long / Tạp chí Nghiên cu Nưc ngoi, Tp 33, S 2 2017 90-104 Vấn đề về chính tả, ngữ phápCác vấn đề về chính tả, ngữ pháp là vấn đề phổ biển nhất trong các phần tiếng Anh trên các biển hướng dẫn du lịch, chiếm trong số các biển thông tin vấn đề về s dụng tiếng Anh. Loại biển hướng dẫn có chứa nhiều lỗi chính tả, ngữ pháp trong phần tiếng Anh nhất là biển thông tin, chú thích 50%. Thực tế, các biển thông tin, chú thích thường chứa nhiều nội dung, có độ dài gấp nhiều lần các biển khác nên tỷ lệ lỗi chính tả, ngữ pháp xảy ra cao hơn. Tuy nhiên, các biển có nội dung rất ngn như biển chào, hay biển chỉ dẫn cũng không tránh khỏi các lỗi này. Cụ thể, ví dụ về một số lỗi chính tả trong các biển hướng dẫn du lịch như sau+ Trong một biển chào ở ngoài khu du lịch Hình 6a, thông điệp chào mừng có s dụng từ “wellcome” thay vì viết đúng chính tả là welcome;+ Trong một biển thông tin về khu du lịch khác Hình 4, phần tiếng Anh thông tin mô tả về khu du lịch được diễn đạt “Especially, Sapa has many kinds of animal and plant…” thay vì viết đúng chính tả là animals, plants dạng số nhiều của từ.Ngoài ra, phần tiếng Anh trên biển hướng dẫn tại các khu du lịch được khảo sát gặp phải một số vấn đề ngữ pháp tiếng Anh cụ thể như sau+ Trong một biển nội quy như Hình 6b, để yêu cầu khách du lịch thể hiện sự tôn kính tại nơi tham quan, từ “respectful” tính từ được chọn làm động từ trong cấu trúc yêu cầu thay vì respect hay show respect to.+ Trong biển chào tại Hình 6c, tên của điểm soát vé được dịch là “check ticket” cấu trúc động ngữ thay vì diễn đạt tên địa điểm bằng cách danh hóa cấu trúc động ngữ là ticket checking – đặt tên theo chức năng của địa điểm hay tên thường dùng trong các khu du lịch quốc tế là ticket barrier. c. Hình 6. Biển chào, biển nội quy, biển chỉ dẫn có chứa lỗi chính tả ở khu du lịch Việt NamCác minh họa trên đây cho thấy các lỗi chính tả, ngữ pháp trong phần tiếng Anh trên các biển là vấn đề ở mức độ đơn giản nhất, chủ yếu do sơ suất trong quá trình chuẩn bị nội dung và thiết kế biển, vì vậy có thể tránh được nếu có sự đầu tư chuẩn bị trước khi đưa biển vào s dụng. Các biển có phần tiếng Anh gặp các vấn đề về chính tả và ngữ pháp thường là những biển được chuẩn bị chưa cẩn thận, vì vậy phần tiếng Anh trong các biển này cũng bộc lộ cả các vấn đề khác về lựa chọn từ, mức độ đầy đủ nội dung, và phong cách ngôn ngữ. Các vấn đề này ít gây hiểu sai về nội dung biển, nhưng ảnh hưởng tới cảm quan chung về chất lượng dịch vụ du Vấn đề về lựa chọn từ vựngLựa chọn từ vựng thiếu hợp lý là vấn đề phổ biến thứ hai trong các phần tiếng Anh trên biển hướng dẫn du lịch tại Việt Nam, chiếm tổng số biển có s dụng tiếng Anh, trong đó biển nội quy và biển thông tin, chú thích có tỷ lệ gặp vấn đề về lựa chọn từ cao nhất, lần lượt là và Lý do các biển này hay gặp phải các vấn đề về lựa chọn ngôn ngữ có lẽ là Tạp chí Nghiên cu Nưc ngoi, Tp 33, S 2 2017 90-10498do các loại biển này có độ dài hơn hẳn các loại biển khác, và các thông tin trên biển có nội dung mang nặng các yếu tố văn hóa xã hội đặc trưng của địa phương khiến người dịch khi phải dùng tiếng Anh làm ngôn ngữ diễn đạt không chọn được từ hoàn toàn phù hợp để thể hiện chính xác nội dung cần truyền tải. Ví dụ cụ thể của vấn đề lựa chọn từ như sau+ Trong biển thông tin ở hình 7a, từ được chọn để dịch cụm từ “nơi soát vé tham quan” là “ticket control” thay vì ticket barrier. Việc dịch “nơi soát vé” là “ticket control” có lẽ xuất phát từ việc hiểu nghĩa của từ control đơn thuần là soát kiểm soát, chứ không dịch dựa trên chức năng, mục đích của địa điểm này nơi soát vé là nơi mọi du khách đều bị yêu cầu dừng lại, thường có rào chn barrier, sau khi du khách trình vé thì rào chn được mở để du khách đi qua và bt đầu hành trình tham quan, khám phá khu du lịch.+ Trong biển chào ở Hình 7b, “Vườn tượng 12 con giáp” được dịch là “The garden of twelve earthly branches” thay vìThe garden of twelve Chinese zodiac statues” hoặc “The garden of twelve animal statues”. Việc lựa chọn “twelve branches” thể hiện nhầm lẫn của người dịch về tiêu điểm thông tin trong tên tiếng Việt của địa điểm. Người dịch chỉ chú ý tới từ “giáp” – sự phân chia thời gian theo quan niệm thời gian mỗi năm được tạo nên một vòng tròn lặp lại các chu kỳ trên trái đất thành 12 phần của vòng tròn. Thực tế, cái được trưng bày, thể hiện tại địa điểm này không phải là khái niệm về thời gian được chia thành 12 giáp mà là tượng của 12 con vật được đặt tên cho các giáp đó. Cách bố trí, thiết kế địa điểm này cũng cho thấy ý đồ của khu du lịch không phải là thể hiện khái niệm trừu tượng mà là tạo khu vui chơi cho trẻ em với các hình ảnh sống động. Các tượng 12 con giáp được thiết kế khá hiện đại, có tượng dựa trên mô phỏng nhân vật hoạt hình chuột Mickey, mèo Tom, Tôn Ngộ Không để thu hút trẻ em tới vui chơi. Vì vậy cách dịch là “the garden of twelve Chinese zodiac statues” hoặc “the garden of twelve animal statues” có lẽ sẽ là phù hợp hơn.+ Trong hình7c, quy định về việc “phải đeo thẻ khi làm việc” được dịch là “must be worn card during working time” thay vì “nametags are required for all staff members at work”. Ở đây, có thể thấy phần dịch tiếng Anh vừa có lỗi chính tả, ngữ pháp cấu trúc bị động bị lộn xộn, không có nghĩa, vừa là lỗi chọn từ. Thực tế, “card” được dịch ra tiếng Việt là “thẻ”, nhưng là loại thẻ ngân hàng, thẻ tín dụng, hay thẻ mua hàng. Từ “thẻ” ở trên biển được hiểu là biển tên mà nhân viên phải đeo để phân biệt với du khách, để chứng minh việc xuất hiện trong khu du lịch là theo đúng phận sự công việc, vì thế phải dịch là nametag.  . Hình 7. Biển thông tin, biển chú thích, biển nội quy có lựa chọn từ chưa hợp lý Tâm, Hồng, Long / Tạp chí Nghiên cu Nưc ngoi, Tp 33, S 2 2017 90-104 99+ Trong Hình 8a như dưới đây, có thể quan sát thấy tình trạng các cấu trúc được chọn khi dịch không thống nhất có câu có chủ ngữ “Visitors…” hay “Businessman..”, có câu dùng cấu trúc mệnh lệnh thức trực tiếp, không rào đón “Keep…”, “Do not…”, thể hiện mức độ áp đặt cao, có câu lại thêm thành phần giảm nhẹ mệnh lệnh “Please…” làm giảm mức độ áp đặt. Việc lựa chọn s dụng các cấu trúc thiếu đồng nhất gây cảm quan không tốt cho du 8a. Phần tiếng Anh của biển nội quyCó thể thấy vấn để về lựa chọn từ ngữ trong biển hướng dẫn có thể là do người dịch chưa hiểu rõ và chưa có khả năng s dụng ngôn ngữ một cách thành thục, cũng có thể có nguyên nhân từ việc phân tích ngôn bản gốc chưa sâu sc, thấu đáo. Dù với nguyên nhân nào, vấn đề về lựa chọn từ có thể làm du khách nước ngoài hiểu sai về nội dung trên biển, từ đó không thể phản hồi đúng theo chức năng, hướng dẫn của biển, gây ảnh hưởng đến cảm quan chung về chất lượng dịch vụ được cung cấp tại khu du lịch. Vấn đề về mức độ đầy đủ nội dung so với bản tiếng ViệtTình trạng dịch thiếu hay thừa nội dung trong các phần dịch tiếng Anh trên biển hướng dẫn du lịch là vấn đề ít gặp phải nhất trong số 4 vấn đề về dịch tiếng Anh chỉ chiếm Đây là một tín hiệu tốt, thể hiện sự tôn trọng khách du lịch nước ngoài của các khu du lịch qua việc cung cấp mọi thông tin đầy đủ và bình đẳng cho khách du lịch nước ngoài. Loại biển hướng dẫn gặp phải vấn đề này nhiều nhất tại các khu du lịch đã khảo sát là biển nội quy. Các quy định về nội quy trên một số biển khi dịch ra tiếng Anh hoặc bị thiếu, hoặc bị thừa nội dung, hoặc phần nội dung bị đảo lộn, trình bày không đúng như nguyên bản tiếng Việt. Trong số các biển được thu thập làm dữ liệu, chúng tôi không quan sát thấy hiện tượng dịch lặp nội trạng dịch thừa nội dung có thể được minh họa khi đối chiếu Hình 8a phần tiếng Anh với Hình 8b phần tiếng Việt vốn là bản gốc của phần tiếng Anh trong Hình 8a. Hình 8b. Phần nội dung tiếng Việt của biển nội quyQuan sát nội dung Hình 8a và 8b, chúng tôi thấy 2 nội dung không nhất quán. Nếu phần tiếng Việt được phân thành quy định chung, quy định cho khách tham quan, và quy định cho tổ chức, cá nhân làm kinh doanh, dịch vụ, trong khi trong phần dịch tiếng Anh tất cả các quy định này được “trộn lẫn” không theo một trật tự nào. Có thể nhận ra rằng phần nội dung “Không hút thuốc lá nơi công cộng, tự ý thắp hương trong nội tự đền và những nơi dễ xảy ra cháy nổ” vốn được trình bày thành một ý, nhưng khi dịch sang tiếng Anh lại tách thành hai ý “Smoking is prohibited” và “Prevent re, ammable devices or explosives are forbidden and no incense should be burned in the temple”. Việc tách một ý thành hai ý độc lập đã làm nội dung phần tiếng Anh bị thừa về mặt hình thức cũng như thay đổi về tiêu điểm thông tin. Tạp chí Nghiên cu Nưc ngoi, Tp 33, S 2 2017 90-104100Phần nội dung “Người hành nghề được cấp có thẩm quyền cho phép, cấp thẻ, khu ngành nghề phải đep thẻ và chấp hành việc kiểm tra của nhân viên công vụ” được chuyển dịch thành “Businessmen should register, wear their identity card and show it to staff. Do not exchange your card with others”. Nội dung “Do not exchange your card with others” không hề có trong quy định tiếng Việt. Tình trạng dịch thiếu nội dung có thể quan sát thấy trong biển nội quy Hình 9 Hình 9. Biển nội quy bị dịch thiếu nội dungTrong quy định thứ 4 trên biển nội quy ở Hình 9, phần tiếng Việt ghi rõ “Không chụp ảnh trẻ em nếu cha, mẹ hoặc người giám hộ không cho phép” và phần dịch tiếng Anh là “Ask before taking photos”, tức là nội dung sau khi dịch trở thành nếu muốn chụp ảnh, cần phải xin phép. Rõ ràng thông tin trong phần tiếng Việt có đề cập rõ đối tượng của việc chụp ảnh là trẻ em chứ không phải đơn thuần là chụp ảnh chung chung, nhưng phần dịch tiếng Anh đã thiếu chi tiết này. Như vậy, khách du lịch quốc tế sẽ hiểu sai thông tin không chỉ chụp trẻ em, mà chụp người lớn, chụp cảnh vật, chụp bản thân đều phải xin phép. Ngoài ra, phần tiếng Việt có ghi rõ đối tượng mà khách du lịch cần xin phép là “cha, mẹ, người giám hộ”, nhưng phần dịch tiếng Anh lại không có nội dung này. Có thể thấy quy định số 4 trong biển nội quy khi dịch tiếng Anh đã bị thay đổi về nội dung do phần dịch bị thiếu. Việc phần tiếng Anh được dịch thừa hay thiếu so với bản tiếng Việt như trên có thể do Ban quản lý khu du lịch có một số lưu ý đặc biệt riêng đối với du khách và những cá nhân, tổ chức kinh doanh du lịch nước ngoài, nhưng nhìn chung vẫn tạo một cảm giác không tốt về sự thiếu bình đằng trong việc cung cấp thông tin cho các đối tượng khác nhau. Vấn đề về ngữ dụng và phong cách ngôn ngữVấn đề về phong cách dịch được tìm thấy khá nhiều trong các biển có phần dịch tiếng Anh và cũng xảy ra phổ biển hơn cả ở các loại biển có nội dung ngôn ngữ dài và phức tạp. Loại biển gặp vấn đề về phong cách dịch nhiều nhất là biển thông tin, chú thích, chiếm tới ¾ số biển, tiếp đó biển nội quy, và biển dịch thông tin trong các khu du lịch thường là loại biển có nội dung truyền tải thông tin mang đặc trưng văn hóa xã hội cao nhất, vì vậy việc dịch nội dung, đặc biệt các nội dung có đặc biệt, độc đáo của địa phương, hay nền văn hóa thường vấp phải khó khăn trong chuyển dịch phong cách ngôn bản sao cho phù hợp. Hình 10. Phần chú thích có dịch tiếng Anh trên ảnh tại minh họa tại một biển thông tinCó thể thấy, phần tiếng Việt “Mùa vàng trên đất cố đô Hoa Lư”, ngoài nội dung mô tả ảnh còn hàm chứa rất nhiều nghĩa biểu cảm Tâm, Hồng, Long / Tạp chí Nghiên cu Nưc ngoi, Tp 33, S 2 2017 90-104 101không đơn thuần là lúa chín có màu vàng mà từ “mùa vàng” còn gợi cảm giác về sự ngút tầm mt của lúa chín rộ, màu vàng trải đều mọi tha ruộng. Màu vàng được s dụng không đơn thuần chỉ để tả màu sc điều mà người xem tranh có thể thấy rõ mà muốn truyền tải nghĩa bóng sâu hơn, nhấn mạnh ấn tượng về sự bội thu, no đủ. Phần dịch tiếng Anh “yellow crop in Hoa Lu ancient capital” chỉ mới đơn thuần dừng lại ở việc chuyển dịch nghĩa đen, chưa chuyển dịch được cảm xúc ấn tượng về sự bội thu, no đủ, và ít cuốn hút. Có lẽ nếu dịch là “Bumper crop in Hoa Lu ancient capital” hay “Yellow abundant crop in Hoa Lu ancient capital” sẽ hợp phong cách với phần tiếng Việt số biển nội quy cũng gặp phải vấn đề về phong cách dịch, ví dụ ở Hình 11. Biển nội quy với phần dịch tiếng Anh sai phong cáchVới chức năng quy định và khuyến cáo, các biển nội quy có thành phần thiết yếu là nội dung những điều cần tuân thủ, được yêu cầu thực hiện, những điều bị cấm hoặc không được khuyến khích. Ở các khu du lịch, các biển hướng dẫn ít có tính pháp lý nên các cấu trúc ngôn ngữ tiếng Việt phổ biến trong các biển nội quy gồm “Yêu cầu…”, “Đề nghị…”, “Cấm…”, “Không…”, tạo cảm giác trung tính. Các cấu trúc này là các cấu trúc phổ biển trong tiếng Việt nên du khách Việt Nam khi đọc biển chỉ đơn thuần tiếp nhận thông tin, không có cảm giác khó chịu. Tuy nhiên, khi so sánh với các biển quốc tế cùng loại, có thể thấy các biển nội quy s dụng tại các khu du lịch được thể hiện tinh tế, uyển chuyển để tránh gây khó chịu cho khách tham quan và du lịch nước ngoài với ngôn ngữ dùng quá mạnh. Phần diễn đạt “prohibit vehicles” như s dụng trong Hình 11 là từ thể hiện mức độ cấm rất cao trong tiếng Anh, vì vậy việc chọn từ này trong phần dịch tiếng Anh có thể gây “sốc” cho một số khách quốc tế, tạo ấn tượng khu du lịch thiếu tôn trọng khách du lịch, khách tham quan. Thay vào đó, có thể chỉ đơn thuần chọn cách “no vehicles” để đảm bảo được phong cách trung tính như đã thể hiện trong phần tiếng thể thấy, các vấn đề ngữ dụng và phong cách ngôn ngữ trong phần tiếng Anh có thể truyền tải không hết những nét đặc sc, thu hút về khu du lịch hoặc hiện vật trưng bày, thậm chí gây ấn tượng không tốt về mức độ thân thiện hay tôn trọng du khách của du lịch.Có thể nói, với vai trò là ngôn bản có kết cấu, thiết kế, minh họa, và với nội dung đặc biệt, các biển hướng dẫn du lịch tại các khu du lịch được khảo sát trong nghiên cứu này đã thực hiện được chức năng giao tiếp mà chủ sở hữu biển – các công ty du lịch, các địa phương mong muốn. Ở các khu du lịch mới được xây dựng, tu sa lại, hệ thống biển hướng dẫn có, tính quy củ và đồng bộ, góp phần hình thành cảnh quan tổng thể cho toàn khu du lịch. Tỷ lệ biển đa ngữ, đặc biệt là biển có tiếng Anh tại những nơi này cao, cho phép các biển hướng dẫn du lịch có khả năng thực hiện chức năng hướng dẫn thông tin cho không chỉ du khách trong nước mà cả du khách quốc tế một cách hữu ích hơn, tạo cảm quan tốt hơn về khu du lịch, từ đó đóng góp vào việc tăng lượng du khách ghé thăm khu du lịch, nâng cao doanh thu, quảng bá hình ảnh, văn hóa, con người Việt Nam. Tạp chí Nghiên cu Nưc ngoi, Tp 33, S 2 2017 90-104102Tuy nhiên, qua khảo sát, có thể thấy phần s dụng tiếng Anh các nội dung trong biển hướng dẫn tại các khu du lịch Việt Nam còn gặp phải một số vấn đề từ đơn giản đến phức tạp gồm các vấn đề về chính tả, ngữ pháp, các vấn đề về lựa chọn từ, các vấn đề về mức độ đầy đủ nội dung của bản dịch, và vấn đề về ngữ dụng và phong cách dịch. Rất nhiều trong số các vấn đề này có thể được hạn chế, khc phục nếu Ban quản lý các khu du lịch có đầu tư hơn để chấn chỉnh chất lượng biển hướng dẫn, cụ thể+ Ban quản lý các khu du lịch nên thành lập bộ phận chuyên trách với năng lực ngoại ngữ tốt để kiểm tra kỹ nội dung phần dịch tiếng Anh trong biển, tránh tuyệt đối các lỗi chính tả, ngữ pháp trong phần tiếng Anh các lỗi này chủ yếu do việc chuẩn bị không cẩn thận, hoặc năng lực dịch thuật chưa cao nên có thể tránh được;+ Những cá nhân tham gia xây dựng, dịch nội dung tiếng Anh cần có sự phân tích tỉ mỉ, nghiêm túc về nội dung tiếng Việt, từ đó có những lựa chọn từ ngữ chính xác khi dịch, tránh việc sp xếp nội dung dịch lộn xộn, dịch thừa hoặc thiếu nội dung ngoài chủ ý của Ban quản lý khu du lịch. + Ban quản lý khu du lịch và bộ phận chuyên trách tiếng Anh cần có sự tham khảo ý kiến của các chuyên gia về du lịch, các dịch giả tiếng Anh, người bản ngữ và các chuyên gia về văn hóa sao cho phần nội dung trong tiếng Việt được hiểu rõ, từ đó được truyền tải đầy đủ sang tiếng Anh trong biển du lịch có phong cách phù hợp, tránh tạo gây cảm quan không tốt cho du khách về khu du lịch do phong cách ngôn ngữ hoặc ngữ dụng không phù hợp. Trong trường hợp s dụng đơn vị cung cấp dịch vụ dịch thuật bên ngoài, cần lựa chọn đơn vị có đội ngũ dịch thuật chuyên nghiệp, đủ năng lực để truyển tải được cả nội dung thông tin và văn hóa trong bản ra, cùng với việc nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch, hệ thống biển hướng dẫn du lịch cần được thiết kế cả về ngôn ngữ và minh họa sao cho tạo ấn tượng đặc sc, thu hút du khách quay trở lại tham quan khu du lịch, đóng góp vào chủ trương chung trong việc hướng du lịch Việt Nam phát triển hiệu quả và bền vững. Nghiên cứu này lựa chọn cách tiếp cận theo lý thuyết về ký hiệu học với mục đích có được những phân tích toàn diện hơn về việc s dụng tiếng Anh trong biển hướng dẫn với sự hỗ trợ của các yếu tố khác trên biển. Tuy nhiên, với mục đích khảo sát việc s dụng tiếng Anh, trên chúng tôi chủ yếu tập trung phân tích phần ngôn ngữ tiếng Anh trong so sánh với phần ngôn ngữ tiếng Việt trên biển mà ít đi sâu phân tích các ngôn ngữ ký hiệu khác, cũng như chưa triệt để khai thác lý luận về giao tiếp đa thức multimodality. Việc đi sâu phân tích các ngôn ngữ ký hiệu khác có thể là một hướng nghiên cứu tiếp theo hứa hẹn đem lại những kết quả nghiên cứu đa dạng hơn, là nền tảng cho những đề xuất đa dạng, đa chiều hơn trong việc nâng cao chất lượng biển hướng dẫn du lịch nói riêng và chất lượng du lịch nói chung.Huỳnh Thị Trúc Giang 2012. Phát triển du lịch bền vững tỉnh Đồng Tháp Hiện trạng và định hướng Luận văn thạc sỹ. Trường Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Thị Diệu An, Nguyễn Thị Oanh Kiều. 2014. Giáo trình tổng quan du lịch - Trường Cao Đằng Thương Mại. Đà Nẵng NXB Đà Nẵng. Tâm, Hồng, Long / Tạp chí Nghiên cu Nưc ngoi, Tp 33, S 2 2017 90-104 103Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam. 2005. Luật du lịch ban hành theo văn bản số 44/2005/QH11 ngày 14 tháng 06 năm 2005. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam. 2008. Luật giao thông đường bộ ban hành theo văn bản số 23/2008/QH12 ngày 13 tháng 11 năm 2008.Bazire, M., Tijus, C. 2009. Understanding road signs. Journal of Safety Science 47. Columbia 2014. Cultural and Heritage Tourism Development. Destination BS Corp. Available through , accessed 01/09/2016 2025Cumbria County Council. 2015. Cumbria White and Brown Tourism Signs – Guidance Notes. Available through , accessed 12/05/2016 1455Dastjerdi, &Abdolmaleki, 2013. A Study of Translation Problems of Tourist Industry Guidebooks An Error Analysis Perspective. International Journal of Language Teaching and Research 11. A. 1981. The Third Language Recurrent Problems of Translation into English. Oxford PergamonFrancesconi, S. 2007 English for Tourism Promotion. Milano M. 2006. The Language of Tourism as Specialixed Discourse. In Palusci, O. Francesconi, S. eds Translating Tourism Linguistic / Cultural Representations. Editrice Università degli Studi di Trento, Trento. 2008. Analyzing tourism discourse A case study of a Hong Kong travel brochure. LCOM papers. L. 2010. Chinese-English Translation of Public Signs for Tourism. The Journal of Specialized Translation 13. 2014. Semiotics, Objectivism & Tourism An anti-critique. Annals of Tourism Research 44 2014. 283– X. & Li, T. 2006. Translating Public signs Some Observations. Chinese Translatos Journal 27 4. S. 2012.Tourism as a specialized discourse The case of normative guidelines in European Union. Token A Journal of English Linguistics 1 2012. P. & Jones, R. 2009 Symbols of Justice’ the Welsh Language Society’s campaign for bilingual road signs in Wales, 1967–1980. Journal of Historical Geography 35. 350 – C. 1964. Signication and Signicance A Study of the Relation of Signs and Values. Cambridge, Massachussetts MIT Press oz, 2012. Analyzing Common Mistakes in Translation of tourist texts Spanish, English, and German. ONOMÃZEIN 2012/2. P. 1993. Paragraphs on Translation. Clevdon/Philadelphia/Adelaide Multilingual Matters LtdPhare, D. Gu, N., Williams, A., & Laughland, C. 2013. A Semiotic Framework to Understand How Signs in a Collective Design Task Convey Information A Pilot Study of Design in an Open Crowd Context. Administration and Research Conference Papers. Paper 4. Availble through , Accessed 01/09/2016 2105Phua, Berkowitz, D., Gargermeier, M. 2012. Promoting Multicultural Tourism in Singapore. Annals of Tourism Research 39 2. 1255–1257 Tạp chí Nghiên cu Nưc ngoi, Tp 33, S 2 2017 90-104104Peirce, 2007. Theory of Signs. Cambridge Cambridge University Ferdinand de [1916] 1983 Course in General Linguistics trans. Roy Harris. London O. 2015. The Language of Tourism Translating Terms in Tourism Texts. Translation Journal October 2015 Issue. Available through , Accessed 18/09/2016 2015Snell-Hornby, M. 1999. The Ultimate Confort’ Word, Text and the Translation of Tourist Brochures. In eds. Word, Text, Translation. Liber Amicorum for Peter Newmark. Clevedon/ Buffalo/ Toronto/ Sidney Multilingual Materrs C. & Vaugeois, 2007. A Manual to Enhance Community Signage and Visitors’ Experience. British Columbia TRIP. Woo, B. Hoon 2013. Augustine’s Hermeneutics and Homiletics. De doctrina christiana. Journal of Christian Philosophy 17. 103–106.Nguyen Thi Minh Tam, Nguyen Dieu Hong, Tran Thi LongVNU University of Languages and International Studies, Pham Van Dong, Cau Giay, Hanoi, VietnamThe purpose of this study is to investigate the use of English in a specialized type of discourse - tourism signs. Data for the research include 203 tourism signs collected from 8 tourist places in Northern Vietnam. These signs were examined in terms of the overall quality visibility, reader-friendliness, designs and illustrations and the quality of the English used. As for multilingual signs, only the English content is analysed. Major problems of English used in tourism signs are found in spelling and grammar, lexical choices, equivalence in terms of contents between the Vietnamese texts and their English translated versions, pragmatics and styles. Based on the ndings, some suggestions to improve the use of English in tourism signs are discussed in the nal part of this paper. Keywordspublic signs, tourism signs, bilingual signs, translation errors ... However, there is not much in-depth research on the translation of food names from Vietnam into English. Some researches were conducted on other fields of translation, such as bilingual public signs in tourist [24]; and bilingual photo captions at a museum [25]. Thus, this research unveils another issue related to online bilingual menus, contributing more to sharpening the picture of translation quality from Vietnamese into English. ...... The presence of English along with Vietnamese in public spaces in Vietnam can be seen as a sign of development and integration like many other similar contexts in the world such as Kang & Zhang, 2008;Vettorel, 2013;Thongtong, 2016;ALHyari & Hamdan, 2019. However, the language transfer of public signs from Vietnamese into English in Vietnam currently has many shortcomings, which are reflected quite often in the local media and reports such as Nguyen et al., 2017;Nguyen, 2018. These reflections focus on errors of spelling, grammar and lexical meanings caused by the negative interference of the source language, while the differences in cultural and pragmatic factors that affect the language use and translation are not adequately investigated. ...Keywords Public signs Cultural schemas Pragmatics American English Vietnamese Translation English public signs represent the development and welcome of Vietnam to visitors around the world. However, the Vietnamese-English public sign translation currently has many drawbacks, one of which is a lack of cultural and pragmatic factors to be taken into account. In order to improve the practice, a comparison of American English and Vietnamese use in public signs has been made, applying the framework of a pragmatic set by Sharifian 2017, which supports the idea that the public signs are realizations practs of the pragmemes underlying the situational contexts associated with some certain speech acts that can be precisely interpreted based on some pragmatic cultural schemas such as DIRECTING, PROMPTING, and COMPELLING. With the help of the street view tool on google maps, a corpus of more than 800 English public signs in the US and more than 800 Vietnamese ones in Vietnam is created for further corpus-based, metadiscourse, and contrastive analyses. The results show that both American English and Vietnamese pragmatic cultural schemas activate the same speech acts manifested in public signs. The differences are notified in the pragmemes related to territory indication, restriction, reminding, warning, command, and prohibition; also in the formulation and enactment of the practs. Many applications to translation of public signs from Vietnamese into English are also suggested at the end of the article.... The presence of English along with Vietnamese in public spaces in Vietnam can be seen as a sign of development and integration like many other similar contexts in the world such as Kang & Zhang, 2008;Vettorel, 2013;Thongtong, 2016;ALHyari & Hamdan, 2019. However, the language transfer of public signs from Vietnamese into English in Vietnam currently has many shortcomings, which are reflected quite often in the local media and reports such as Nguyen et al., 2017;Nguyen, 2018. These reflections focus on errors of spelling, grammar and lexical meanings caused by the negative interference of the source language, while the differences in cultural and pragmatic factors that affect the language use and translation are not adequately investigated. ... Linh Ngoc Truong PhamEnglish public signs represent the development and welcome of Vietnam to visitors around the world. However, the Vietnamese-English public sign translation currently has many drawbacks, one of which is a lack of cultural and pragmatic factors to be taken into account. In order to improve the practice, a comparison of American English and Vietnamese use in public signs has been made, applying the framework of a pragmatic set by Sharifian 2017, which supports the idea that the public signs are realizations practs of the pragmemes underlying the situational contexts associated with some certain speech acts that can be precisely interpreted based on some pragmatic cultural schemas such as DIRECTING, PROMPTING, and COMPELLING. With the help of the street view tool on google maps, a corpus of more than 800 English public signs in the US and more than 800 Vietnamese ones in Vietnam is created for further corpus-based, metadiscourse, and contrastive analyses. The results show that both American English and Vietnamese pragmatic cultural schemas activate the same speech acts manifested in public signs. The differences are notified in the pragmemes related to territory indication, restriction, reminding, warning, command, and prohibition; also in the formulation and enactment of the practs. Many applications to translation of public signs from Vietnamese into English are also suggested at the end of the article. Keywords Public signs Cultural schemas Pragmatics American English Vietnamese Translation Stefania M. MaciAmongst the genres characterizing the language of tourism, some make it seems more immediately recognizable as specialized discourse. These are the genres of normative guidelines related to the tourism industry and issued by the European Union. Given the lack of analysis of these texts from the applied linguistics perspective, this preliminary investigation aims at describing some of the features of such normative guidelines, the high frequency of complex sentences, modality, technical terminology and ancient crystallized legal forms. Overall, these features seem an expression of statutory language which explicates the necessity to include all possible information in order to avoid ambiguity and vagueness, and to convey an impression of semantic objectivity and legal YuiLing IpThis paper attempts to investigate the features of tourism discourse. A travel brochure which is available from the Hong Kong Tourism Board Visitor Centre was studied in the present research. The multimodal analysis focuses on the micro-level and pays close attention to the linguistic and visual elements employed in the brochure. In view of the intangible and heterogeneous nature of tourism products, it is found that travel advertising relies heavily on hyperbolic language and glamorous images to enhance its persuasive power so as to attract business. The choice of words, stylistic devices and grammatical structures in the brochure are examined. Major concepts in visual analysis, such as modality and salience, are reviewed. Other factors which influence the interpretation of tourism discourse, such as the use of collage and the image of participants as reflected in the brochure, are also Bazire Charles TijusIn this paper, we propose a three levels framework that allows accounting for the understanding of road signs. We consider that a road sign is 1 the iconic transcription of 2 a legal message about categories that is displayed and has to be interpreted 3 in context. Whereas categorization is the basic process that determines decision-making, results of two experiments show that road signs, as well as the generative grammar they are based on, are not so well know by road users. Results also show that natural categories categories used by drivers do not match legal categories categories defined in legal texts about driving. Even if people and laws agree on words, they do not agree on the intensions and extensions of the categories tagged by words. Finally, we discuss about the critical role played by context situational/environmental one and task-context in the processing of road signs this paper we provide a critical evaluation of the campaign for bilingual road traffic signs in late 1960s and 1970s Wales, examining how Cymdeithas yr Iaith Gymraeg the Welsh Language Society came to see English language road signs as mundane, ubiquitous and oppressive symbols of anglicisation and of British/English government authority in Wales. We suggest a rethinking of Michael Billig's concept of banal nationalism’, arguing that while English language road signs may appear as banal symbols and technologies of government authority and control, their banality is only ever experienced from particular perspectives by partial constituencies. For Welsh language campaigners, English language road signs were experienced and criticised as eruptive and disruptive symbols of oppression, rule and colonisation, and in the paper we trace the genesis of the bilingual road signs campaign, British government reactions to proposals for bilingual signs, and the shift in policy which followed the very public support of hundreds of respectable Welsh professionals for the campaign from December 1970. We conclude the paper by examining the work of the Welsh Office's Committee of Inquiry into Bilingual Traffic Signs the Bowen Committee, and the subsequent disagreements between language campaigners, government scientists and politicians on the issue of language order. Throughout the paper we suggest that it was the ubiquity, functionality and materiality of road signs which made this one of the most effective campaigns carried out by the Welsh Language KoBilingual public signs are extensively used in Chinese-speaking regions such as Mainland China, Taiwan and Hong Kong. This article concentrates on issues relating to Chinese public signs at tourist attractions and their translation into English. Based on examples collected from these three regions, it finds that Chinese public signs in tourist areas constitute a special genre and tend to use a descriptive and/or figurative language style to convey a simple message, which creates challenges for translation. The data analysis indicates that three translation strategies are employed in translating public signs— literal translation, semi-literal and semi-adaptive translation, and free adaptation—and that literal translation is the most common strategy. It is found that all three strategies have limitations in conveying the message meaningfully and naturally. The article concludes that the unique nature of public signs in tourist areas suggests a need for further investigation of the language styles used in such signs in both languages and the most appropriate strategies for their translation. NGUYỄN THỊ TUYẾTTrường Đại học Hải Phòng Nhận bài ngày 20/11/2019. Sửa chữa xong 24/11/2019. Duyệt đăng 25/11/ tắtAbstract The paper focuses on the current situation of teaching ESP English for Specific Purposes at universities and some solutions to improve the efficiency of ESP teaching for Situation of teaching, ESP. 1. Mở đầuĐất nước Việt Nam đang chuyển mình, tích cực hội nhập vào nền kinh tế thế giới trên mọi phương diện, vấn đề dạy và học Tiếng Anh trong chương trình giáo dục ở nước ta hiện nay, được nhà nước và xã hội rất quan tâm và chú trọng. Nhiều cuộc hội thảo, cải cách đã được tổ chức và thực hiện ở các bậc học về những vấn đề như nội dung chương trình, đổi mới phương pháp giảng dạy, bồi dưỡng và nâng cao chất lượng giáo viên, trang thiết bị, tài liệu giảng dạy, cải cách phương pháp kiểm tra, đánh giá và công nhận trình độ người học theo định hướng Chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, những nỗ lực này chưa đáp ứng được yêu cầu của một xã hội ngày một năng động và thay đổi thường xuyên như hiện nay. Do vậy, nhiều vấn đề cần được xem xét một cách cụ thể và chi tiết hơn, trong đó có vấn đề dạy và học Tiếng Anh ở bậc đại học nói chung và đặc biệt là việc giảng dạy Tiếng Anh chuyên ngành ở các trường đại học nói riêng. Kết quả khảo sát thực địa của Viện Hàn lâm quốc gia Hoa Kỳ năm 2006 có phần nhận xét về phương pháp dạy và học đại học của Việt Nam như sau “Phương pháp giảng dạy không hiệu quả, quá phụ thuộc vào các bài thuyết trình và ít sử dụng các kỹ năng học tích cực, kết quả là có ít sự tương tác giữa sinh viên SV và giảng viên trong và ngoài lớp học; quá nhấn mạnh vào ghi nhớ kiến thức theo kiểu thuộc lòng mà không nhấn mạnh vào việc học khái niệm hoặc học ở cấp độ cao như phân tích và tổng hợp, dẫn đến hậu quả là học hời hợt thay vì học chuyên sâu; SV học một cách thụ động”[5]. Hơn nữa, việc dạy và học Tiếng Anh chuyên ngành English for Specific Purposes nói riêng vẫn chưa thoát khỏi ảnh hưởng của hình thức giáo dục theo hướng thi cử. Hầu hết SV đều coi trọng kết quả bài thi hơn là khả năng sử dụng tiếng Anh như một ngoại ngữ giao tiếp năng động. Theo Tiến sĩ Hoàng Văn Vân mục đích của việc học một ngôn ngữ là có thể sử dụng nó để đáp ứng nhu cầu giao tiếp của bản thân với một người khác bằng ngôn ngữ đó [7]. Tuy nhiên, SV hầu hết chưa hiểu được mục đích quan trọng vậy, nhiều SV làm bài thi viết tiếng Anh có điểm cao nhưng kỹ năng giao tiếp chưa đạt yêu cầu dẫn đến việc chưa đáp ứng được mong muốn, nhu cầu của các nhà tuyển dụng khi tốt nghiệp đại Tiếng Anh chuyên ngành và thực trạng giảng dạy Tiếng Anh chuyên ngành cho SV Thực tế, việc giảng dạy Tiếng Anh chuyên ngành không nằm ngoài mục tiêu phát triển đầy đủ 4 kỹ năng ngôn ngữ nghe, nói, đọc, viết cho học viên như nền tảng tiếng Anh cơ sở General English. Tuy nhiên, tiếng Anh chuyên ngành dành cho mục đích chuyên nghiệp, mục đích cụ thể, tập trung sự chú ý của người học theo các yêu cầu ngôn ngữ và giao tiếp trong một lĩnh vực chuyên môn cụ thể. Từ thập niên 50 của thế kỷ 20, việc giảng dạy Tiếng Anh chuyên ngành ở các nước tiên tiến đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển với một số đầu sách điển hình cùng các cách tiếp cận khác nhau từ cơ bản đến chuyên sâu trong nhiều lĩnh vực [2]. Ví dụ các giáo trình như “English for Banking and Finance” cho SV ngành Tài chính ngân hàng, “English for Economics” cho SV ngành Kinh tế, “Be My Guest”, “English for Tourism” cho SV ngành du lịch, hoặc “English for Accounting” cho SV ngành Kế toán,..Có thể nói vấn đề chính của giảng dạy Tiếng Anh chuyên ngành là xây dựng cho SV kỹ năng giao tiếp và sử dụng văn bản chuyên ngành tiếng Anh trong lãnh vực mà họ được đào tạo. Xét về chương trình và mục tiêu đào tạo, việc dạy kiến thức Tiếng Anh chuyên ngành cùng với việc phát triển kỹ năng giao tiếp là cần thiết. Bởi lẽ, theo chương trình đào tạo SV đã được học một số học phần Tiếng Anh cơ bản và được lĩnh hội các kiến thức nền về lĩnh vực chuyên ngành qua các học phần bằng tiếng mẹ đẻ. Nhưng qua bài thi hết học phần Tiếng Anh chuyên ngành hàng năm và qua các cuộc phỏng vấn trực tiếp bằng tiếng Anh với các SV học xong học phần Tiếng Anh chuyên ngành, người viết với tư cách là giảng viên giảng dạy Tiếng Anh chuyên ngành nhiều năm nhận thấy khả năng giao tiếp cơ bản, đặt câu đơn giản của phần lớn các SV này rất yếu. Nhiều lớp thậm chí có trên 50% SV trong một lớp học không đạt điểm qua học phần. Rất nhiều em sử dụng cấu trúc, thuật ngữ chuyên ngành tiếng Anh như cấu trúc tiếng Việt và việc phát âm các từ, đặc biệt là các từ chuyên ngành của SV không đúng. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan và đã được người viết đưa ra sau đây như là một số bất cập điển hình- Thời lượng cho các học phần Tiếng Anh cơ sở trong năm thứ nhất ở đại học không nhiều, chưa đủ để bồi đắp kiến thức ngôn ngữ cho SV sẵn sàng học học phần Tiếng Anh chuyên ngành do một số lượng lớn SV đầu vào đại học có vốn tiếng Anh quá kém. Các trường đại học thường áp dụng theo quy định chung và lập chương trình đào tạo cho các học phần Tiếng Anh cơ sở chỉ là 8 tín chỉ. Nếu SV không tự giác tích cực tự học thêm ngoài giờ trên lớp thì sẽ không thể đạt yêu cầu về các kỹ năng ngôn ngữ để có thể học tiếp học phần Tiếng Anh chuyên ngành. Trên thực tế, nhiều SV khi học học phần Tiếng Anh chuyên ngành vẫn còn nợ các học phần Tiếng Anh cơ sở. Điều này cản trở nhiều cho việc tiếp thu lĩnh hội kiến thức cũng như kỹ năng ngôn ngữ cuả SV trong việc giảng dạy học phần Tiếng Anh chuyên Một thực tế là SV trong một lớp học đến từ nhiều địa phương trong và ngoài tỉnh - đa số từ các huyện, xã, vùng nông thôn với điều kiện học tập khác nhau nên tất yếu có sự phân hóa đa dạng về trình độ và kỹ năng sử dụng tiếng Anh English competence. Đó là chưa kể đến động cơ học tập khác nhau của các em. Nhiều SV chưa nhận thức đươc tầm quan trong của ngoại ngữ tiếng Anh là chìa khóa xin việc và thành công sau này. Điều này có nghĩa là với cùng một nội dung và phương pháp giảng dạy nhưng mức độ tiếp thu và thực hành của từng SV trong một lớp học chuyên ngành có sự chênh lệch, khác biệt lớn. Do đó một số khó khăn phát sinh trong quá trình dạy và học là không thể tránh khỏi. - Mặt khác, sĩ số lớp học phần Tiếng Anh chuyên ngành quá đông thường hơn 50 SV. Do vậy, việc chú ý quan tâm phát triển ngôn ngữ của giảng viên trong giờ học đối với từng SV là rất hạn chế. Giảng viên phải giành một thời gian khá nhiều để ổn định trật tự, và việc quản lý và bao quát tất cả SV, đặc biệt SV ngồi cuối lớp là khó khăn lớn đối với người dạy. Do vậy, nhiều SV không có cơ hội thực hành, phát triển kỹ năng ngôn ngữ, nhất là đối với SV thụ động, nhút nhát tự ti về kiến thức ngôn ngữ bản thân. Mà số lượng SV này thường không phải là ít do xuất phát điểm về hoàn cảnh và trình độ của SV như đã nói ở phần Thời lượng cho các học phần Tiếng Anh chuyên ngành không nhiều, phần lớn là 2 tín chỉ 30 tiết, chỉ có một số ít ngành số tín chỉ này lên tới 3 đến 5 như các ngành kinh tế hay du lịch. Việc cung cấp kiến thức mới song song với việc luyện tập kỹ năng sẽ phiến diện, nhất là đối với SV không chủ động tìm tòi, nghiên cứu tài liệu trước và sau giờ học, mặc dù giáo viên giảng dạy đã luôn cố gắng tận dụng tối đa việc hướng dẫn cho SV tự học, thực hành, luyện tập ngoài giờ học trên lớp. - Cơ sở vật chất giành cho các lớp học Tiếng Anh chuyên ngành còn hạn chế, chưa có phòng chuyên biệt, chưa được trang bị đầy đủ hệ thống máy chiếu, mà điều này thực sự cần thiết cho việc minh họa các hoạt động hay thuật ngữ chuyên ngành trong giờ dạy. SV sẽ dễ tiếp thụ khái niệm, kiến thức và ghi nhớ nhanh hơn, say mê với bài giảng thông qua các hình ảnh sinh động và thực tế. 3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy Tiếng Anh chuyên ngành Từ những thực tế trên và trong khả năng hiểu biết của tác giả, đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy Tiếng Anh chuyên ngành như sau Trước hết việc phân loại trình độ đầu vào cho SV là rất cần thiết. Điều này giúp người dạy có thể thiết kế bài giảng trọng tâm hơn, tổ chức các hoạt động ngôn ngữ được tốt hơn. Bản thân SV với cùng trình độ sẽ có tâm lý học tập trung hơn, dễ dàng chia sẻ, trao đổi kiến thức, thực hành ngôn ngữ một cách nhiệt tình hơn. Điều này giúp giờ học ngôn ngữ đạt hiệu quả Trong điều kiện hiện tại của các trường đại học thì việc đảm bảo các lớp học phần Tiếng Anh chuyên ngành với sĩ số dưới 30 SV là hợp lý, mặc dù theo nghiên cứu của Tony Dudley-Evans, Maggie Jo St John một nhóm học Tiếng Anh chuyên ngành lý tưởng chỉ 6 đến 8 người học [1]. Với sĩ số lớp học trung bình 30 SV, theo kinh nghiệm của người viết đã giảng dạy gần 20 năm trong trường đại học ở Việt Nam, giáo viên có thể quản lý và tổ chức các hoạt động lớp học hiệu quả. Do vậy, người học có cơ hội thực hành giao tiếp, tham gia các dạng bài tập luyện ngôn ngữ trên lớp, người dạy nắm bắt, hiểu rõ trình độ, tâm lý của SV phát triển qua từng tiết học để có phương pháp giảng dạy phù hợp cho mỗi một SV trong lớp học của mình. Phương pháp lấy người học làm trung tâm có thể áp dụng hiệu quả với lớp học này. Đặc biệt với giờ học Tiếng Anh chuyên ngành đòi hỏi SV phải tham gia tích cực, lĩnh hội không những kiến thức về chuyên ngành của mình, mà còn phải hiểu những kiến thức đó bằng ngôn ngữ tiếng Anh, tham gia các hoạt động giao tiếp với những thuật ngữ chuyên ngành, thì phương pháp này thực sự tạo điều kiện cho SV tập trung, chủ động phát triển giao tiếp ngôn ngữ Theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ, các đơn vị sự nghiệp công lập, trong đó có các trường đại học công lập có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính và nhiều trường đại học đã thực hiện tự chủ thí điểm theo Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 của Chính phủ đã có những thành công nhất định [3]. Đồng thời với chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo là chương trình đào tạo tăng cường môn Ngoại ngữ đối với giáo dục đại học, hy vọng rằng trong thời gian tới việc tự chủ phân bố thời lượng học tập và giảng dạy Tiếng Anh nói chung, cũng như tiếng Anh chuyên ngành nói riêng sẽ được các trường đại học chủ động điều chỉnh, chú trọng gia tăng số lượng tín chỉ hay mô-đun cho tiếng Anh chuyên ngành cùng với việc tự chủ đầu tư, chi phí nhanh và kịp thời để trang bị cơ sở vật chất phục vụ cho dạy và học Tiếng Anh chuyên ngành. Đây thực sự sẽ là bước đột phá đúng đắn giúp cho các trường đại học có thể nâng cao chất lượng giảng dạy ngoại ngữ, trình độ giao tiếp tiếng Anh cho SV tốt nghiệp, tạo điều kiện cho họ dễ dàng bắt kịp hội nhập kinh tế toàn cầu, nhờ đó tăng vị thế của trường đại học. 4. Kết luậnThực tế về trình độ giao tiếp tiếng Anh của SV tốt nghiệp đại học đang là hồi chuông cảnh báo về chương trình và phương pháp đào tạo ở các trường đại học. Ông Michael Lương - giám đốc kỹ thuật của Intel Việt Nam đã nói “ kết quả học tập phải áp dụng được các khái niệm có tính lý thuyết vào ứng dụng thực tế…Một SV “toàn diện” có bảng điểm cao vẫn chưa đủ, phải có kỹ năng giao tiếp …” Và ông đề nghị trong cải tiến chất lượng giáo dục đại học, cần “cách mạng về chương trình giảng dạy, trong đó chú ý tiếng Anh vì giao tiếp tiếng Anh của SV quá yếu”[6].Những kiến nghị nêu trên chắc hẳn kéo theo những phát sinh về kinh phí đào tạo và nguồn nhân lực. Nhưng thiết nghĩ, với chủ trương đổi mới tự chủ trong quản lý giáo dục ở các trường đại học của Chính phủ, cùng với quyết tâm tìm kiếm hiệu quả trong việc dạy và học Tiếng Anh chuyên ngành, chúng ta phải có một số thay đổi, trong đó có thay đổi nhận thức. Việc đề xuất ý tưởng thực ra chỉ là bước khởi đầu. Nhưng việc nhận thức đầy đủ của chúng ta và của SV về toàn bộ quá trình dạy và học Tiếng Anh nói chung và tiếng Anh chuyên ngành nói riêng phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội và theo hướng cải cách giáo dục đại học, mới là vấn đề chính./. Tài liệu tham Developments in English for Specific Purposes. 2. Nguồn 4. Hutchinson, Tom & Waters, Alan, English for Specific Purposes A learner-centered approach, Publishing house Cambridge University, Ngô Tứ Thành, Cần đổi mới cách giảng dạy ở đại học. Nguồn ngày 12/3/ Tuoi Tre Newspaper 07/01/ Van H Van, The current situation and issues of the Teaching of English in Viet Nam, Japanese, 2008. 12 Tháng Một 2021Nội dung chính Show Thực trạng về tiếng Anh của sinh viên Việt hiện nayTiếng Anh giao tiếp ở sinh viên có thực sự tốt?Bị “hẫng” khi giao tiếp bằng tiếng AnhBị “đuối” khi học tiếng Anh giao tiếp thực tếChủ động trong việc học tiếng Anh là điều sinh viên nên làmCách chọn trung tâm tiếng Anh cho sinh viênVideo liên quan Trong xu thế hội nhập như hiện nay, tiếng Anh ngày càng trở nên quan trọng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Đặc biệt đối với sinh viên là thế hệ nòng cốt tương lai của xã hội, ngoài các kiến thức chuyên môn thì việc trang bị thật tốt tiếng Anh là điều vô cùng cần thiết. Hãy là công dân có ích và phát triển tương lai cá nhân cũng như đất nước, đừng để tiếng Anh trở thành rào cản của chính mình bạn nhé. Cùng YOLA tìm hiểu về thực trạng hiện nay và trung tâm tiếng Anh cho sinh viên uy tín trong bài viết thêmThực trạng về tiếng Anh của sinh viên Việt hiện nayThực trạng đáng lo ngại nhất ở đa phần sinh viên Việt hiện nay là đều thiếu kiến thức tiếng Anh cơ bản. Tiếng Anh của sinh viên còn quá “đuối” và cần có phương pháp để khắc phục tạo hứng khởi cho việc như hiện nay tiếng Anh đã phổ cập đến hầu hết mọi lứa tuổi thì không có lý do gì sinh viên lại không nắm vững thứ ngôn ngữ này. Tuy nhiên, điều đáng báo động hiện nay lại hoàn toàn ngược lại, theo thống kê thì có khá nhiều sinh viên đã tìm đến các trung tâm tiếng Anh. Sau bài test đầu vào mới thấy được kiến thức tiếng Anh của sinh viên gần như hổng hết, mất cơ Anh giao tiếp ở sinh viên có thực sự tốt?Thực tế cho thấy, khi học tiếng Anh cho sinh viên tại trường học, họ được đào tạo rất kỹ về ngữ pháp, văn viết có thể rất tốt nhưng lại không thể áp dụng được vào thực tế, trong những tình huống cụ thể. Hay nói cách khác là bị “hẫng” tiếng Anh giao tiếp ngoài đời thường. Để khắc phục được điều này cần phải có phương pháp học cụ thể như học tiếng Anh giao tiếp với người nước ngoài, học tiếng Anh cùng Tây hay thậm chí học tiếng Anh khi đi du lịch. Mọi lúc mọi nơi, sinh viên hãy cố gắng trau dồi kiến thức tiếng Anh giao tiếp đi “hẫng” khi giao tiếp bằng tiếng AnhTừ khi hội nhập kinh tế, nước ta đã có rất nhiều tập đoàn, công ty nước ngoài đầu tư, mở rộng thị trường. Để khẳng định được năng lực của bản thân trong công việc thì tiếng Anh dường như trở thành một thứ công cụ hỗ trợ không thể thiếu. Tiếng Anh cho sinh viên cũng trở nên rất quan trọng nếu như họ muốn có một công việc ổn định sau khi ra trường. Tuy nhiên, trong khi có những sinh viên đã tìm được việc làm ở những công ty lớn thì vẫn còn không ít bạn đang vùng vẫy trong vũng lầy tìm việc chỉ bởi vốn từ tiếng Anh còn yếu kém, không thể giao tiếp bằng tiếng Anh mặc dù được học rất nhiều trên ghế nhà “đuối” khi học tiếng Anh giao tiếp thực tếKhi bắt đầu học Tiếng Anh sinh viên cần phải chú trọng đến việc lắng nghe trước, tập trung bắt chước, nói sau đó mới học viết và đọc. Quy trình nghe có vẻ giống như một đứa trẻ vậy, chúng học nói trước sau đó mới học chữ sau. Đây có lẽ cũng chính là quy trình học tiếng Anh chuẩn nhất, tuy nhiên tiếng Anh cho sinh viên hiện nay thường đi ngược lại, các bạn thường tập trung nhiều hơn vào ngữ pháp sau đó mới đến kỹ năng thể bạn viết rất lưu loát nhưng khi đối diện với người nước ngoài hay chỉ đứng trước giáo viên tiếng Anh thôi, đặt trong tình huống cụ thể sẽ không biết cách xử lý như thế nào cho chuẩn xác, ấp úng và không thể trình bày. Đây cũng được cho là lý do mà nhiều bạn sinh viên sau khi ra trường đã bỏ lỡ nhiều công việc tốt trong môi trường làm việc quốc động trong việc học tiếng Anh là điều sinh viên nên làmCần thay đổi lối mòn về phương pháp học, quan điểm học tiếng Anh hiện tại sẽ giúp nâng cao trình độ của sinh viên một cách nhanh chóng. Hơn thế nữa, khi học tiếng Anh sinh viên cần đặt mình vào mục tiêu chính là phát triển ngôn ngữ để chủ động hơn trong việc học và quá trình giao ngại, đừng trốn tránh, đừng cảm thấy tự ti khi bản thân mình nói tiếng Anh còn sai, phát âm chưa chuẩn hay mất nhiều thời gian để trả lời câu hỏi của người đối diện. Bạn cần phải tự tin, cố gắng luyện tập tăng cường khả năng phản xạ, hãy nói nhiều lên để khắc phục tính sợ tiếng Anh chọn trung tâm tiếng Anh cho sinh viênHiện nay có vô vàn phương pháp và địa chỉ học tiếng Anh nhưng để đảm bảo yếu tố phù hợp với bản thân không phải là lựa chọn dễ dàng. Bạn có thể học online trên internet như youtube, các trang web hay học nhóm, tham gia câu lạc bộ,… Tuy nhiên, để có động lực học tốt nhất, nhanh chóng, lộ trình học cụ thể thì trung tâm Anh ngữ vẫn là nơi mà nhiều bạn tìm chọn được trung tâm tiếng Anh uy tín dành cho sinh viên uy tín và chất lượng, bạn cần chú ý các tiêu chí nhưChất lượng giáo viên Giáo viên cần có chứng chỉ, bằng cấp giảng dạy. Đồng thời ưu tiên những trung tâm Anh ngữ cho sinh viên có giáo viên dày dặn kinh nghiệm giảng trình học phù hợp với trình độ và nhu cầu của bản thức học đa dạng, linh gian phòng học rộng rãi, thông thoáng, đầy đủ các thiết bị hỗ trợ cho việc học tập của học viên và giảng dạy của giáo lượng học viên trong lớp phù hợp, không quá đông để giáo viên có thể nắm rõ được trình độ của phí phù hợp với “túi tiền” hiện tại và tương xứng với chất lượng giảng tâm Anh ngữ YOLA được thành lập từ năm 2009 với hơn 10 năm kinh nghiệm giảng dạy tiếng Anh cho nhiều thế hệ học viên từ trẻ mầm non đến khóa học dành cho người lớn. Với quan điểm “trong mỗi con người đều tồn tại những điểm mạnh nhất định và lý tưởng”, sứ mệnh của YOLA chính là giúp các bạn trẻ khai phóng điểm mạnh và sử dụng tối đa khả năng của mình để theo đuổi định hướng tương lai. YOLA là một trong những trung tâm tiếng Anh tốt nhất dành cho sinh viên. Đây cũng chính là lý do mà YOLA luôn nằm trong Top trung tâm tiếng anh uy tín chất lượng nhất Việt Nam năm 2021 theo đánh giá, thống kê phân tích các chỉ số website uy tín từ Nextop Digital – khóa học tiếng Anh cho người lớn giúp các bạn sinh viên có thêm nhiều kiến thức và kỹ năng cốt yếu cho nền tảng tiếng Anh vững chắc, hữu ích cho quá trình học tập và làm việc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Đồng thời học viên còn được nâng cao khả năng giao tiếp, tư duy phản biện và dần làm quen với chiến thuật thi đã sở hữu vốn tiếng Anh kha khá, bạn có thể tham gia các khóa học luyện thi IELTS, TOEFL,… tại YOLA cho nhu cầu chinh phục chứng chỉ tiếng Anh quốc khóa học tại YOLA đều cam kết đầu ra cho các học viên và bài test đầu vào để đưa ra lộ trình học phù hợp nhất. Chần chừ gì mà không gọi ngay đến Hotline của chúng tôi hoặc để lại thông tin trong bảng dưới đây và sẽ có nhân viên tư vấn liên hệ sớm nhất cho bạn. Tóm tắt nội dung tài liệu A- ĐẶT VẤN ĐỀ I-LỜI MỞ ĐẦU -Trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước của chúng ta ngày nay, mọi người ai ai cũng muốn góp phần mình vào sự nghiệp đổi mới đất nước, đưa đất nước hoà nhập với thế giới trên mọi lĩnh vực Văn hoá- Kinh tế- Chính trị- Thể thao... Đặc biệt ngày nay với một nền công nghệ thông tin chiếm lĩnh trên toàn thế giới cũng như việc cần thiết nghiên cứu tài liệu nước ngoài, thì việc trang bị cho những kiến thức về ngôn ngữ chung của thế giới là vô cùng cấp thiết đối với mỗi con người chúng ta. Trước những yêu cầu cấp thiết đó, Đảng và Nhà nước ta đã xác định "Giáo dục là quốc sách hàng đầu" và đưa môn Tiếng Anh vào dạy ở trường học như một ngôn ngữ tất yếu bắt buộc- Một ngôn ngữ chung của thế giới để giao tiếp, đưa mọi người đến gần nhau hơn. -Hoà chung với không khí phát triển không ngừng của đất nước, thầy - trò trường THCS Yên Bái ra sức thi đua dạy tốt, học tốt để đáp ứng với yêu cầu đòi hỏi của xã hội ở tất cả các bộ môn trong khuôn khổ giáo dục phổ thông. Bộ môn Tiếng Anh là một bộ môn mới nhưng rất được cấp trên chú ý tới. Người ta thường nói " Biết thêm một ngôn ngữ là hiểu thêm được một nền văn minh". Chính vì vậy mà thầy- trò trường THCS Yên Bái xác định đó là bộ môn cơ bản trong giáo dục ở nhà trường. -Về bộ môn Tiếng Anh có rất nhiều vấn đề cần được đề cập đến. Tuy nhiên ở đây tôi thiết nghĩ chúng ta cần quan tâm đến bước đầu các em bắt đầu học Tiếng Anh ở lớp 6. Chúng ta cần dạy cho các em một kỹ năng học ngoại ngữ tốt, tạo điều kiện thuận lợi cho các em học cao hơn, rộng hơn. 1 II-THỰC TRẠNG DẠY VÀ HỌC TIẾNG ANH HIỆN NAY Ở TRƯỜNG THCS. 1- Thực trạng Thuận lợi. -Vi ệ c d ạ y và họ c Ti ế ng Anh hi ệ n nay đ ượ c sự quan tâm và ch ỉ đ ạ o c ủ a ngành. -Ti ế ng Anh là ngôn ngữ ph ổ thông c ủ a th ế gi ớ i nên h ọ c sinh có ý thứ c họ c h ỏ i. -Đây là môn học mới nên học sinh rất thích học. -Tiếng Anh là ngôn ngữ viết bằng chữ La tinh nên có cùng hình thức chữ viết của Tiếng Việt, tạo điều kiện cho học sinh dễ dàng tiếp cận được. -Tài liệu tham khảo rất phong phú. Khó khăn -Tiếng Anh là ngôn ngữ có âm gió nên học sinh gặp khó khăn trong việc phát âm. -Cơ sở vật chất ở địa phương còn nhiều, chưa đáp ứng được yêu cầu giảng dạy của bộ môn này như Băng, đài, máy chiếu, tranh ảnh.... -Chưa có phòng chức năng dành cho môn học này. -Học sinh ở lớp 6 nhiều em mải chơi, chưa say mê học tập, hay làm việc riêng trong giờ. -Các em chưa nhận thức được tầm quan trọng của môn Tiếng Anh. - Tiếng Anh là môn học khó, phải học thuộc lòng từ vựng, cấu trúc câu và ngữ pháp, học sinh rết dễ quên. -Học sinh chưa có nhiều thời gian thực hành trên lớp vì bài học quá dài. 2 -Cán bộ giáo viên chưa có điều kiện tiếp xúc với người nước ngoài để mở rộng vốn từ và phát âm chuẩn hơn. Thực tế thường thấy với một số tiết học thì công việc của thầy và trò là Học sinh chuẩn bị trước từ mới, thầy thuyết minh, học sinh ghi chép và lặp lại. Sau đó giáo viên nhận xét rồi đưa ra câu trả lời đúng cho học sinh thực hành. Cách tổ chức này thực tế tôi thấy chỉ có 25%-30% học sinh suy nghĩ và làm việc tích cực. Học sinh cũng chỉ ghi chép bài trên bảng và lắng nghe một cách thụ động, máy móc. Một số học sinh khác thì coi như không biết gì. Như vậy hiệu quả đào tạo rất thấp, học sinh khá giỏi thì cứ giỏi, còn học sinh yếu kém thì vẫn mãi không tiến bộ được, hơn nữa lớp học thì rất ồn, học sinh mất tập trung. Với suy nghĩ như trên, hai năm nay tôi đã suy nghĩ, tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu tài liệu và thông qua những giờ dạy thực tế trên lớp để cố gắng tìm ra một phương pháp quản lý lớp học và đặc biệt là lớp 6 mới bắt đầu làm quen với Tiếng Anh. Để thu hút được 100% học sinh tham gia vào bài học một cách chủ động, sinh động hơn và các tác động tích cực hơn đến học sinh, cũng như gây hứng thú cho học sinh mỗi lần đến tiết Anh Văn. Giúp học sinh xoá bỏ cảm giác ngại khi học Tiếng Anh và giáo viên có thể nắm bắt được mọi hoạt động của học sinh nhằm giúp cả lớp tập trung hướng vào bài học, để thực hành chính xác hơn. Sau đây là một vài suy nghĩ của tôi về " Cách quản lý tốt tiết dạy Tiếng Anh mà tôi đã áp dụng trong quá trình giảng dạy. Cách quản lý tốt tiết dạy Tiếng Anh thực chất đó là cách thu hút học sinh vào bài học". Qua thực tế tôi thấy kết quả đạt được tương đối khả quan, học sinh hiểu bài, có kỹ năng vận dụng từ mới, ngữ pháp và giao tiếp, học sinh có kỹ năng thực hành tốt. Đặc biệt là thu hút tất cả các em vào bài học, gây cho học sinh hứng thú học Tiếng Anh và dần dần yêu thích môn Tiếng Anh. Kết quả khả quan nhất là tôi đã dùng phương pháp này trong tiết thao giảng đợt thi giáo viên giỏi trường vừa qua đạt kết quả tốt. 3 2- Kết quả, hiệu quả của thực trạng. Từ thực trạng trên, để công việ đạt hiệu quả tốt hơn, tôi mạnh dạn trình bày những việc làm thực tế của mình trước đồng nghiệp, để trao đổi học tập lẫn nhau, không ngừng nâng cao tay nghề. Rất mong được sự góp ý chân thành của đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn ! B- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ *Phần giải quyết vấn đề gồm có 2 phần Các biện pháp tổ chức thực hiện và tìm ra giải pháp. 1- Các biện pháp tổ chức thực hiện Nhận thức được vấn đề làm thế nào để nâng cao hiệu quả đào tạo bằng cách quản lý lớp tốt và thu hút học sinh vào bài dạy ở lớp 6 và đạt kết quả rất khả quan. Đầu tiên tôi khảo sát lớp 6D bài tập 12 phần A tiết 73 "what are you doing? " Tôi đưa ra phương pháp dạy đơn thuần là yêu cầu học sinh lắng nghe và đọc lại. Sau đó giải thích từ mới và cấu trúc, yêu cầu học sinh dịch và làm bài tập tương tự, tôi tiếp tục phát phiếu bài tập cho học sinh để kiểm tra khả năng hiểu bài của các em. Câu 1 use the verbs in the present progressive or present simple tense. 1. Nga play tennis now. 2. we swim at the moment 3. what you always do in the morning ? 4. Mary and I do aerobics 5. what he do now ? 6. she jog every afternoon. 4 Câu 2 look at the pictures and say what they are doing ? Câu 3 write new words in AI Kết quả đạt được như sau 0-2,5 đ 3-4,5 đ 5-6,5đ 7-8,5 đ 9-10 đ 5↑ Lớ Tổng Số Số Số Số Số Số p % % % % % % bài bài bài bài bài bài 6D 40 5 13% 15 37% 14 35% 4 10% 2 5% 20 50% Từ kết quả bài tập trên chỉ có 50% học sinh nắm được bài, nhưng chưa chắc chắn và sâu sắc, kỹ năng thực hành giao tiếp của các em còn kém. Cũng bài học đó, tiết học đó tôi áp dụng ở lớp 6C. Điều tiên, tôi xác định mục đích của bài là Dạy cho các em thực hành giao tiếp thông qua cấu trúc ở thì hiện tại tiếp diễn và thì hiện tại đơn. -Thì HTTD S + tobe + V-ing -Thì HT đơn S + V/V-s, es -Với câu hỏi what + tobe + S + V - ing ? which sport + do/ does + S + play ? Học sinh dùng các câu hỏi và mẫu câu trên để nói về sức khoẻ hoặc một số tình huống làm cho lớp phấn chấn trước khi học bài. Tôi quan sát nhanh về phía lớp như muốn nhắc nhở mốtố em còn chưa chú ý, sau đó tôi kiểm tra bài cũ Thì hiện tại tiếp diễn học sinh đã học ở bài 8 nên tôi kiểm tra luôn ở thì này, nhằm giúp các em có kiến thức đã học liên quan đến kiến thức ở bài mới. 5 Câu hỏi như sau Dùng từ gợi ý viết thành câu hoàn chỉnh. 1. I/ playing/ video games/ am. 2. she/ riding/ bike/ her / is. Hai bài tập này học sinh lớp 6C đều làm được. Khi hai học sinh lên bảng làm, tôi bắt đầu kiểm tra vở bài tập của các em ở dưới lớp và hỏi câu hỏi tự do, yêu cầu các em trả lời từ dễ đến khó. 1. what are you doing now ? 2. what is your mother doing now ? 3. what color do you want ? 4. how do you go to school ? 5. where does your sister live ? -Yêu cầu học sinh trả lời và thực hành với bạn bên cạnh, những học sinh khác chưa được trả lời thì lắng nghe sau đó kể lại, hoặc nhận xét bài làm của bạn mình. -Với một loạt câu hỏi từ dễ đến khó đã thu hút cả lớp vào yêu cầu của giáo viên. -Phần giới thiệu ngữ liệu mới, tôi yêu cầu cả lớp chú ý và dùng tranh ảnh để yêu cầu học sinh đoán nghĩa của từ Ví dụ muốn giới thiệu từ "swim" tôi đưa ra một bức tranh có hình người đang bơi, hoặc giới thiệu từ "badminton" bằng tranh có hình người đang chơi cầu lông. -Cách dùng tranh ảnh này thu hút học sinh lớp 6C vào bài rất nhanh, các em đoán nghĩa từ và ghi nhớ rất lâu. -Sau đó tôi yêu cầu học sinh cả lớp chú ý vào sách và đưa ra cấu trúc mới bằng tranh ảnh, cử chỉ tôi giới thiệu từ mới kèm theo cấu trúc. Tôi phân nhóm hoặc phân cặp cho các em thực hành mẫu câu, học sinh lớp 6 rất thích 6 được đóng vai nên các em rất hăng hái, cho mỗi học sinh thực hành trước lớp ít nhất một lần. -Khi các em đã nghe băng và thực hành tốt thì tôi yêu cầu các em làm bài tập theo phiếu. Câu 1 Sửa lỗi các câu sau `1. he is swim. 2. they are play badminton 3. what they are doing ? 4. what sport do she play ? Câu 2 Sắp xếp lại các chữ cái để thành một từ có nghĩa. 1. eabiser 2. bdatomnin 3. tnnise tbela 4. Hycbolvl Sau đó toio đưa ra đáp án đúng. -Tôi yêu cầu cả lớp làm bài tập, các em sẽ không còn thời gian để làm việc riêng hay nói chuyện. -Tôi yêu cầu học sinh hỏi và trả lời về chính các em và những người thân, bạn bè của các em, đề tài thật gần gũi với các em, làm cho học sinh vừa ôn được từ vựng đã học ở những bài trước, vừa nhớ lâu hơn từ mới trong bài này. -Trong khi luyện tập, tôi luôn luôn chú ý đến mọi đối tượng học sinh và lôi cuốn các em vào bài học, lớp học sôi nổi, không có học sinh làm việc riêng, trong khi thực hành tôi luôn chú ý sửa sai cho học sinh. 7 Kết thúc tiết học, tôi cũng đưa ra bài tập kiểm tra giống như ở lớp 6D, kết quả thật bất ngờ như sau 0-2,5 đ 3-4,5 đ 5-6,5đ 7-8,5 đ 9-10 đ 5↑ Lớ Tổng Số Số Số Số Số Số p % % % % % % bài bài bài bài bài bài 6C 40 0 0% 0 0% 8 20% 22 55% 10 25% 40 100% Tiết học 73 ở lớp 6C vừa đạt kết quả cao, vừa rất sôi nổi, nghiêm túc, mọi học sinh được làm việc, giáo viên chỉ là người hướng dẫn, còn học sinh là người chủ động tiếp thu kiến thức, học sinh thì bị tôi cuốn vào bài học một cách nhẹ nhàng. -Một vài học sinh yếu kém luôn được tôi chú ý, phân loại bài tập phù hợp. Học sinh đã chú ý vào bài, trong giờ học, tôi luôn luôn phân nhóm để học sinh làm việc các em thi đua nhau giữa các nhóm và cùng nhau tiến bộ. -Điều tôi rất mừng là học sinh đã phát triển được kỹ năng giao tiếp, các em đã mạnh dạn hơn trước. Để rõ ràng hơn, tôi đã khảo sát trực tiếp ở giờ thao giảng giáo viên giỏi tuyến trường. *Tiết 85-Bài 14 Making plan A vacation destinations A4; A5 Khi vào lớp, tôi cũng băn khoăn, lần đầu tiên trên lớp 6A học sinh chưa quen, song tôi cũng tự tin rằng Với phương pháp thu hút học sinh vào bài như tôi đã trình bày trên, tôi tin rằng giờ dạy sẽ đạt kết quả cao. -Để tạo không khí vui vẻ, tôi tạo ra các tình huống đơn giản nhưng các em rất phấn khởi, tạo điều kiện cho các em có cảm giác gần gũi với giáo viên, với phong cách nhẹ nhàng, nghiêm túc làm cho học sinh vững tin hơn. 8 -Phần kiểm tra bài cũ Bởi vì đơn vị kiến thức ở thì tương lai gần + các từ để hỏi như how long ; where ; what, học sinh đã học mà những từ này lại liên quan đến bài mới, tôi yêu cầu học sinh đặt câu hỏi cho những câu trả lời sau 1. I am going to visit HaLong Bay. 2. they are going to stay in Hue for two days. Hai học sinh lên bảng làm bài tập. 1. where are you going to visit ? 2. how long are they going to stay in Hue? ở dưới lớp tôi yêu cầu học sinh chú ý nghe câu hỏi và trả lời. 1. what are you going to do in your vacation ? 2. where are you going to visit ? 3. how long is he going to stay in HaNoi ? Tôi yêu cầu học sinh thực hành tương tự. -Khi học sinh lên bảng làm xong, tôi yêu cầu học sinh sửa bài của bạn và sau đó đưa ra đáp án đúng. -Vào bài mới, tôi xác định được mục đích của tiết 85 là Thông qua thực hành giới thiệu các trạng từ mang tính chất liên kết các hành động như là first, next, then, after that, finally. Sau đó luyện tập cho các em thì tương lai gàn với các từ để hỏi. how long, what, where. Khi xác định rõ mục đích của bài, tôi hướng dẫn học sinh vào hoạt động nhằm nổi bật các ngữ liệu mới đó. 9 -Học sinh nghe băng và tìm ra từ mới. Phần giới thiệu các từ chuyển tiếp, tôi đưa ra một bảng phụ có các hoạt động của học sinh vào buổi sáng và yêu cầu các em sắp xếp laị thứ tự. 1. I brush my teeth , clean my face 2. I go to school 3. I have breakfast 4. I take morning exercises. 5. I get up at Hành động nào ở số một, tôi cho từ đứng trước là "First", đứng trước hành động thứ hai tôi điền từ "then", tiếp theo tôi viết từ "next", hoạt động nào tiếp theo nữa tôi điền "after that" và cuối cùng là từ "finally" sau đó tôi yêu cầu học sinh kể lại hoạt động của bạn học sinh trên. Adverbs Activites First I get up at Then I take morning excercises Next to I brush my teeth, clean my face After that I have breakfast Finally I go to school Như vậy Thông qua hoạt động của một học sinh vào buổi sáng sớm, tôi đã giới thiệu được các liên từ cần dạy, qua bảng học sinh nhớ rất lâu. -Trong khi học sinh làm bài tập, tôi quan sát và yêu cầu cả lớp làm việc, để cho mỗi học sinh kể lại xem các công việc của mình vào buổi tối bằng các từ vừa học, sau đó đọc trước lớp. -Tôi yêu cầu học sinh nghe lại băng và lưu ý cách đọc của người Anh vào một số từ khó, học sinh lắng nghe băng chăm chú. 10 -Thông qua phần giới thiệu ngữ liệu mới, tôi đã giới thiệu luôn cho các em về phong cảnh Việt Nam -Tôi phân nhóm cho học sinh làm bài tập và yêu cầu học sinh đọc lại bài tập phần A4, tôi chú ý gọi nhiều đối tượng học sinh và sửa sai cho các em . Sau bài học tôi đưa ra câu hỏi dùng true or False. 1 ............... First, Mai and Phuong are going to visit HaLong Bay. 2................ Then, they are going to visit NhaTrang beach. 3. .............. they are going to stay in HaLong Bay for two days. 4................ Finally, they are going to visit Hue Citadel 5................ they are going to stay with their friends in HCM city. 6................ they are going to stay in NhaTrang for three days. Tôi yêu cầu học sinh suy nghĩ và làm theo nhóm, nhóm nào làm nhanh nhất thì cho lêng bản điền True or False, cả lớp thi nhau làm nhanh để được lên bảng. Cuối cùng tôi đưa ra đáp án đúng 1T; 2F; 3T; 4F; 5F ; 6F. Phần kiểm tra sự hiểu biết về các trạng từ liên két, cũng như đánh giá về sự hiểu biết của học sinh. Tôi đã chuẩn bị tranh, ảnh về các nơi mà bạn phương và bạn Mai đi thăm, những trạng từ first, then,... tôi viết chữ mầu đỏ, còn các hành động tôi viết mầu đen, tôi yêu cầu học sinh lên bảng dùng các bì có sẵn chữ ghép vào tranh và yêu cầu học sinh sắp xếp lại hành động của hai bạn theo đúng cuộc hành trình. Phần này học sinh làm rất tốt. Phần A5 Tôi phát phiếu cho các lớp lập bản. How Adverbs places Where to stay Activity long 11 Firsi HaLong With uncle and aunt 2 days Visit HaLong bay Then HaNoi Hotel 3 days See NgocSon Temple Next to Hue Friend' s house 2 days See the citadel After that NhaTrang Friend' s house 3 days Go to NhaTrang beach finally Ho Chi Minh city Grandparents A week Visit grandparents Sau khi cả lớp đã lập bảng, tôi yêu cầu học sinh hỏi và trả lời theo bảng, dùng hệ thống câu hỏi what, where; how long. 1. which place are they going to visit, first ? -they are going to visit HaLong. 2. where are they going to stay in HaLong ? -they are going to stay with their uncle and aunt. 3. how long are they going to stay in HaLong ? -they are going to stay there for three days. are they going to do? -they are going to visit Ha Long Bay. Sau đó tôi yêu cầu học sinh thực hành từng đôi một Hỏi và trả lời theo bảng, học sinh thực hành rất tốt. Điều này tôi thấy tất cả các học sinh đều được thực hành. Tiếp đó, tôi cho các em thực hành hỏi và đáp bằng chính các hoạt động của các em cho kỳ hè tới. Học sinh lập ra một kế hoạch cho mình trong kỳ nghỉ Kết quả như sau Học sinh khá giỏi thì viết về kế hoạch rất phong phú, còn học sinh yếu và trung bình thì kể về kỳ nghỉ đơn giản hơn. 12 -Trong giờ học tôi luôn chú ý tới học sinh yếu kém để sửa lỗi cho các em, cũng như có những câu hỏi phù hợp với các em. -Thời gian trong giờ học tôi phân chia hợp lý, điều này được ban giám khảo đánh giá rất cao. -Phần củng cố bài Tôi gọi hai học sinh trình bày nội dung đã học, sau đó gọi học sinh khác nhắc lại. -Tôi yêu cầu các em lập kế hoạch cho ngày nghỉ cuối tuần khi về nhà. Cuối giờ còn 3 phút tôi cho học sinh chơi trò chơi "survey" P1 On my vacation, I am going to visit Ha Long Bay. P2 On my vacation, I am going to visit Ha Long Bay, and Ha Noi. P3 On my vacation, I am going to visit Ha Long Bay, Ha Noi, and HCM city. P4 On my vacation, I am going to visit Ha Long Bay, Ha Noi, HCM city and Nha Trang... Tiết học trôi qua rất nhanh, học sinh được làm việc nhiều. Tất cả đối tượng học sinh đều hiểu bài và rất chú ý vào bài. Với phương pháp áp dụng vào tiết này, bài này được ban giám khảo đánh giá cao. Một giờ thao giảng tuy còn thiếu sót, song cái đạt được rất lớn đó là Học sinh được thực hành nhiều, giáo viên có phương pháp tốt để quản lý lớp, thu hút các em vào bài học. Tuy vậy, dù tiết học này có thành công chăng nữa thì bao giờ sau các tiết học tôi cũng như các đồng nghiệp khác lại rút thêm được những kinh nghiệm mới cho bản thân, mỗi tiết dạy tiếp theo. 2- Những giải pháp . 13 Từ những thực tiễn trên tôi đã rút ra những giải pháp cho cách quản lý tốt giờ dạy và học Tiếng Anh lớp 6 như sau Đối với thầy. Theo tôi nghĩ, giáo viên cần nắm vững phần ngữ liệu mới, đó là từ mới và ngữ pháp thật chắc, cần khắc sâu những đơn vị kiến thức nào mà học sinh cần rèn luyện. Muốn quản lý được lớp học tốt ở lớp 6 không phải là chuyện dễ, vì vậy tôi nghĩ phải có phương pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh và tôi đã phân loại đối tượng học sinh tuỳ theo mức độ tiếp thu của học sinh để chọn hệ thống câu hỏi phù hợp nhưng phải đảm bảo nguyên tắc từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Thể loại bài tập phải đa dạng và phong phú. -Bài tập được dành cho mọi đối tượng học sinh , kể cả học sinh giỏi và học sinh yếu kém, nếu không học sinh yếu kém rất dễ chán. -Hệ thống bài tập được lựa chọn một cách cẩn thận, chặt chẽ, gần gũi với đời sống các em học sinh, bám sát mục tiêu dạy ở lớp 6. -Những tình huống đưa ra tôi đã có sẵn phương án giải quyết tình huốn đó một cách phù hợp với mục đích giao tiếp. -Tôi nghĩ cần tạo cho học sinh một thói quen thực hành trước lớp để thể hiện được thái độ của ngươì giao tiếp, thông qua các tình huống hay mẫu câu khác nhau. -Đối với học sinh khá giỏi cần phải có bài tập nâng cao nhằm gây hứng thú cho học sinh và tạo điều kiện cho các em tư duy, sáng tạo, tạo điều kiện cho các em vừa ôn lại kiến thức cũ mà lại tiếp nhận, phát hiện ra kiến thức mới một cách khoa học. 14 *Còn đối với học sinh yếu kém, thầy cần phải có biện pháp cụ thể, những bài tập vừa với khả năng của các em, tạo điều kiện cho các em tiếp thu kiến thức nhẹ nhàng, luôn luôn động viên các em. -Tuy nhiên đối với một số học sinh có tính chai lỳ, chán học, đã nhắc nhở mà không chịu cố gắng thì giáo viên cần phải có biện pháp cứng rắn, tuy nhiên đây chỉ là biện pháp cuối cùng. -Tôi đã giao tiếp với học sinh với một phong cách điềm đạm, không cứng nhắc, tuỳ theo từng đối tượng học sinh để có phương pháp giảng dạy cần thiết. -Tôi đã yêu cầu học sinh làm việc theo nhóm, hoặc theo từng cặp. -Về thời gian trên lớp, tôi đã cố gắng chia từng phần thật hợp lý cũng như dùng giáo cụ trực quan để thu hút học sinh vào bài và ghi nhớ được lâu hơn. Vận dụng phương pháp mới, tôi đã dùng các thủ thuật trong từng phần cho hợp lý, hay cho học sinh chơi trò chơi bổ trợ nâng cao kiến thức, kết hợp học mà chơi, chơi mà học. -Tôi đã làm phiếu bài tập cho các em học sinh làm việc. Điều quan trọng là giáo viên phải nắm vững mục đích của tiết học. Tóm lại Quản lý tốt một giờ học Tiếng Anh đối với học sinh khối 6 là đã thành công được 80%, vì vậy thực chất ra quản lý tốt học sinh cũng chính là phương pháp thu hút lôi cuốn tất cả học sinh vào bài giảng của mình bằng các hoạt động của thầy tạo điều kiện cho học sinh được làm việc nhiều. Đối với trò. -Yêu cầu học sinh học bài cũ trước khi đến lớp, để liên kết kiến thức cũ với kiến thức mới. 15 -Học sinh trong lớp phải trật tự và làm theo yêu cầu của các thầy cô giáo -Học sinh cần phải chủ động học tập, không phải để các thầy cô giáo nhắc mới học. -Học tiếng Anh là học ngôn ngữ vì vậy yêu cầu các em học sinh phải kiên trì nhẫn nại, chịu khó rèn luyện từng bước, không vội vàng, không sơ sài, có gì thắc mắc phải hỏi giáo viên ngay. -Yêu cầu học sinh học đến đâu phải học thật kỹ đến đó, không học qua loa và phải dành nhiều thời gian cho việc học ở nhà. -Học sinh phải xác định mục đích chính của bài học và phát triển kỹ năng giao tiếp là chính, vì vậy phải mạnh dạn giao tiếp, bỏ mặc cảm nói trước đông người khi giao tiếp. -Đặc biệt các em phải nhận thức được tầm quan trọng của môn Tiếng Anh. Trong tiết học. Để tiếp thu được đơn vị kiến thức cần nắm, thì sự quản lý lớp học đóng vai trò rất quan trọng, mọi hoạt động của học sinh và giáo viên đều nhằm mục đích cuối cùng là thực hành giao tiếp tốt, vì vậy chúng ta phải chú ý đến mọi tiến trình trong cách thiết kế bài giảng trong một tiết học. -Phần đầu tiên vào lớp, giáo viên cần có những câu hỏi và tình huống nhằm tạo không khí dễ chịu, vui vẻ cho học sinh, làm cho các em yêu thích tiết học đó. -Phần kiểm tra bài cũ giáo viên cần nắm vững nguyên tắc ôn tập bài cũ, những yêu cầu bài cũ đó có liên quan đến kiến thức bài mới, tạo cho các em vừa ôn bài cũ, vừa có một bước đệm để sang bài mới tự tin hơn. -Phần dạy ngữ liệu chúng ta nên lưu ý đặc biệt đến giáo cụ trực quan, vì nó là phần không thể thiếu được trong một bài dạy tiếng Anh. Ví dụ 16 như tranh, ảnh, đài, băng, sách.... học sinh rất chăm chú vào tranh ảnh và vật liệu tạo điều kiện cho các em liên tưởng đến kiến thức bài học. Giáo viên cần chú ý đến mọi đối tượng trong lớp 100% học sinh đều phải được thực hành. Như vậy, giáo viên cần gọi nhiều học sinh tham gia trả lời hệ thống câu hỏi có tính chất suy luận tạo điều kiện cho tất cả học sinh làm việc. -Đối với học sinh yếu kém, thầy cô có thể hỏi những câu hỏi mang tính chất gợi ý, để các em có cơ hội trả lời. Dần dần học sinh yếu kém sẽ tự tin hơn trước lớp, còn học sinh giỏi sẽ phát huy năng lực của mình hơn. -Sau khi học sinh luyện tập, tôi có thể hỏi xem học sinh đã sử dụng kiến thức nào ? Cuối cùng tôi đưa ra câu trả lời đúng nhất. Tiếng Anh có rất nhiều âm gió vì vậy tôi đã chú ý sửa cho học sinh về cách phát âm, cách lên giọng, xuống giọng nhằm thể hiện thái độ giao tiếp tốt hơn. -Giáo viên cần nhấn mạnh những điểm mà học sinh vấp phải trước lớp trong tiết học, giáo viên không nên đua ra nhiều kiến thức quá cao, vấn đề là giáo viên biết cách lựa chọ những bài tập, để thông qua đó học sinh nắm vững được vừa lượng kiến thức trong tiết học, không đi trước chương trình. -Khi luyện tập tôi đã dành nhiều thời gian cho học sinh làm việc, cho học sinh áp dụng với bản thân để giao tiếp theo từng cặp hay phân nhóm. -Cho học sinh nhận xét bài làm của các bạn, sau đó tôi mới tóm lại vấn đề. C- KẾT LUẬN. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ NHỮNG ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ. 1- Những kết quả đạt được. 17 Sau một năm thử nghiệm tại lớp 6A do tôi phụ trách môn Anh Văn, kỳ thi cuối năm do Sở giáo dục - đào tạo Thanh Hoá ra đề đã đạt kết quả cao 100% các em đạt điểm trung bình trở lên, trong đó có 40% khá giỏi, 50% trung bình khá và 10 % trung bình, 100% các em có thể giao tiếp những câu đơn giản trong chương trình học lớp 6. Theo tôi nghĩ, thực chất quá trình dạy học là quá trình tự điều chỉnh liên tục và thường xuyên để ngày càng có những tiết dạy tốt hơn, hiệu quả hơn, không có điểm dừng mà chỉ có thực tế giảng dạy mới kiểm nghiệm được phương pháp chuẩn xác nhất của giáo dục. Thông qua các tiết dạy, tôi đều thấy phương pháp thu hút học sinh vào bài càng tốt thì học sinh càng tiếp thu bài tốt hơn. Muốn đạt được điều đó thì giáo viên cần phải quản lý lớp học tốt và có những phương pháp hay cũng như các thủ thuật khi lên lớp để giúp các em học sinh lớp 6 có ý thức học tốt hơn. Học sinh lớp 6 là đối tượng còn hiếu động, ham chơi, chưa có ý thức tự giác trong học tập và các em chưa nhận thức rõ được tầm quan trọng của môn Tiếng Anh. Sau nhiều tiết dạy ở lớp 6, tôi nhận thấy Bước đầu đã đạt kết quả khả quan, học sinh đã có ý thức học tập và tiến bộ. Theo tôi đây là bước đầu thành công trong giờ dạy Tiếng Anh lớp 6, tuy nhiên không thể thiếu sót khi trình bày, bản thân tôi còn phải học hỏi các bạn đồng nghiệp và tự điều chỉnh nhiều trong quá trình dạy học. Rất mong sự giúp đỡ chân thành của các bạn đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn . Tôi hy vọng rằng với ý kiến và cách thu hút học sinh vào bài mà tôi đã đưa ra sẽ là phương pháp khoa học để giúp học sinh lớp 6 học tiếng Anh tốt hơn và đạt kết quả cao hơn. 18 2- Những kiến nghị và đề xuất. -Qua đây, tôi xin được đề xuất với Sở giáo dục- Đào tạo, phòng giáo dục huyện những nguyện vọng nhỏ sau đây. a. Những sáng kiến kinh nghiệm của đồng nghiệp chúng tôi ở các đơn vị khác đã được phòng giáo dục, sở giáo dục lựa chọn, cần phổ biến rộng rãi trong ngành để chúng tôi có điều kiện học tập, đồng thời phát huy được sáng kiến đó b. Dạy Tiếng Anh cần rất nhiều giáo cụ trực quan cũng như đồ dùng dạy và học, vậy kính mong nhà trường, phòng giáo dục, sở giáo dục và các cơ quan ban ngành có liên quan tạo điều kiện về cơ sở vật chất, cung cấp nhiều tài liệu tham khảo và sách nâng cao để việc dạy và học Tiếng Anh ngày càng tốt hơn c. Tiếng Anh là môn học khó vì vậy monng sở giáo dục, các ban ngành có liên quan tạo điều kiện đưa môn học Tiếng Anh vào trong trường tiểu học ở các vùng nông thôn giống như ở thành phố để các em có điều kiện tiếp xúc với Tiếng Anh từ lớp 1. Để nâng cao chất lượng dạy và học môn Tiếng Anh trong nhà trường, thiết nghĩ là không dễ. Do đó đòi hỏi mỗi giáo viên phải không ngừng tìm tòi, nghiên cứu phương pháp dạy phù hợp với đối tượng học sinh của mình để tiết học đạt hiệu quả cao. Là một giáo viên trẻ mới ra trường nên tôi chưa có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy, vì thế đề tài này của tôi còn nhiều thiếu xót, mong các bạn đồng nghiệp đóng góp thêm ý kiến để cùng nhau xây dựng nền giáo dục có chất lượng. Xin chân thành cảm ơn ! Thanh Hoá, ngày 01 tháng 03 năm 2006. MỤC LỤC 19 A- PHẦN MỞ ĐẦU. 1- Lý do chọn đề tài 2- Mục đích của đề tài 3- Đối tượng nghiên cứu B- NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1-Cơ sở lý luận 2-Thực tiễn 73- Bài 12-phần A what are you doing? 85- Bài 14 Making plan 3- Những giải pháp với thầy với trò tiết học LUẬN kết quả đạt được đề xuất - kiến nghị TÀI LIỆU THAM KHẢO plans grade 6 -Trịnh Thị Phương Thảonhà XBGD kế bài giảng Tiếng Anh 6-Nguyễn Minh Hoài nhà XBĐHSP practical English Grammar Thomson and effect patricia Ackert Grammar in use Raymond Murphy nhà XBGD Training course for teacher 20 Page 2 YOMEDIA Trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước của chúng ta ngày nay, mọi người ai ai cũng muốn góp phần mình vào sự nghiệp đổi mới đất nước, đưa đất nước hoà nhập với thế giới trên mọi lĩnh vực Văn hoá- Kinh tế- Chính trị- Thể thao... 28-11-2009 1650 219 Download Giấy phép Mạng Xã Hội số 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 All rights reserved. Trước khi đi vào chi tiết, người viết phải thừa nhận rằng ban đầu đã có cảm giác hơi rối khi đọc nghiên cứu “English in Vietnam” Anh ngữ tại Việt Nam. Tran Phuong Minh, tác giả chính của nghiên cứu, đã dành một thời lượng đáng kể ở phần mở đầu để giới thiệu Việt Nam và lịch sử ngàn năm chống Bắc thuộc của đất nước. Tác giả thậm chí còn đề cập cụ thể cả cuộc chiến giành độc lập đầu tiên của Việt Nam khi Ngô Quyền đánh đuổi quân Nam Hán. Đó đều là những thông tin có phần khá… xa lạ cho một nghiên cứu về Anh ngữ tại Việt Nam. Song khi nhìn thấy tấm bản đồ trong đó ghi nhận đầy đủ chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, người viết nhận ra mục tiêu lớn hơn hay ở góc độ nào đó là cao cả hơn của phần mở đầu. Tác giả có lẽ muốn dùng cơ hội đăng tải nghiên cứu của mình để phản kháng lại những bản đồ “đường lưỡi bò” được các học giả Trung Quốc tuyên truyền tràn lan rầm rộ. Chỉ tính riêng điểm này, chưa bàn đến nội dung của nghiên cứu, người viết đã vô cùng trân trọng tinh thần của tác giả Minh. Tuy nhiên, không phải không có sự kết nối giữa các thảo luận trên với sự tồn tại của tiếng Anh ở Việt Nam đương đại. Tiếng Trung từng là thứ ngôn ngữ tinh hoa thống trị hệ thống học thuật, quản trị hành chính và văn thơ Việt Nam suốt một ngàn năm. Vậy vai trò của tiếng Anh là gì, và nó bắt rễ tại Việt Nam như thế nào hiện nay? Anh ngữ và các ngoại ngữ có ảnh hưởng trước đó tại Việt Nam Nghiên cứu bắt đầu với việc hệ thống hóa các ngoại ngữ trong chiều dài lịch sử Việt Nam. Theo phân tích của Minh, các ngoại ngữ được sử dụng phổ biến tại Việt Nam từ trước đến nay đều không nằm ngoài ảnh hưởng của một thế lực ngoại bang thống trị hoàn toàn đất nước. Tiếng Hán là kết quả của hàng ngàn năm người phương Bắc thống trị Việt Nam về mặt quân sự, tư tưởng và văn hóa. Nhưng nó cũng nhanh chóng bị thay thế ngay khi giới tinh hoa Việt Nam có thời gian phát triển riêng ngôn ngữ của mình tiếng Nôm và tiếp cận với các loại ngôn ngữ khác, giúp họ thoát được cái rễ văn hóa Trung Hoa không mong muốn. Một ông đồ viết thư pháp tiếng Hán tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Hà Nội. Ảnh Ngọc Thắng/ Thanh Niên. Tiếng Pháp, giống như thế, tồn tại chủ yếu nhờ vào sự áp đặt của chính quyền thực dân, và luôn bị đặt vào tình thế phải cạnh tranh với thứ ngôn ngữ Latin mà chính các nhà truyền giáo của họ khởi dựng. Ngay sau năm 1954, tiếng Pháp nhanh chóng mất đi sự hấp dẫn của mình. Tương tự, tại miền Bắc từ năm 1954 cho đến sau năm 1975, giáo dục tiếng Trung và tiếng Nga được ưu ái do hai quốc gia anh cả này viện trợ dồi dào cho chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong suốt và sau chiến tranh. Nhưng khi các khó khăn kinh tế giai đoạn Chiến tranh lạnh lộ rõ, các quốc gia xã hội chủ nghĩa buộc phải thân ai nấy lo, cả tiếng Nga lẫn tiếng Trung đều “rớt đài” khỏi đấu trường ngoại ngữ Việt Nam. Tiếng Anh, với tư cách là ngôn ngữ kinh tế toàn cầu, là thứ ngôn ngữ bắt rễ tại quốc gia chúng ta tự nhiên hơn cả, theo cách tiếp cận của tác giả. Thú vị hơn, khác với các loại ngôn ngữ trước đó du nhập vào Việt Nam theo con đường “chính chủ”, tiếng Anh đi cùng các nhà đầu tư Đài Loan, Singapore, Hong Kong và Liên minh châu Âu vào Việt Nam, với tư cách là “lingua franca” ngôn ngữ phổ thông thứ hai của những nhóm này. Các bậc phụ huynh Việt Nam, kỳ vọng rằng con em mình có chỗ đứng trong các công ty có vốn đầu tư nước ngoài, là những người đầu tiên khởi động phong trào học tiếng Anh tại Việt Nam. Tác giả ghi nhận, phải đến năm 1993, Hội đồng Anh British Council, nhánh văn hóa của Đại sứ quán Vương quốc Anh tại Việt Nam, mới bắt đầu chương trình English Language Training Đào tạo tiếng Anh cho các nhân viên công quyền tại Việt Nam. Và đến tận năm 2002, các chương trình đào tạo tiếng Anh chính thức, “chính chủ” của người Anh mới được ra mắt công chúng. Tương tự, “nhà truyền bá” tiếng Anh quan trọng khác là Hoa Kỳ cũng rất chậm chân trong cuộc chơi. American Center Trung tâm Hoa Kỳ ở cả hai thành phố lớn Bắc và Nam của đất nước có vai trò khá quan trọng trong giao lưu và phổ biến văn hóa Mỹ, nhưng có vẻ không năng động lắm trong các hoạt động phổ biến ngôn ngữ Anh. Phải đến tận năm 2016, Peace Corp đã được Luật Khoa đề cập ở đây mới được giới thiệu và hoạt động tại Việt Nam nhân sự kiện chuyến thăm chính thức của Tổng thống Obama. Tuy nhiên, Peace Corp tập trung vào các hoạt động giao lưu văn hóa – khoa học – xã hội nhiều hơn là phổ biến ngôn ngữ và giới thiệu những biện pháp quy chuẩn hóa chúng, dù họ có các chương trình giảng dạy tiếng Anh cho trẻ em. Đào tạo Anh ngữ tại Việt Nam vừa thiếu định hướng, vừa thiếu đa dạng? Tiêu đề phụ là của người viết tự đặt và không chắc tác giả có đồng ý với kiểu giật tiêu đề này hay không. Tuy nhiên, với các thông tin được cung cấp trong nghiên cứu, có nhiều lý do để cảm thấy thất vọng về tình trạng đào tạo thứ ngôn ngữ toàn cầu này suốt 30 năm qua. Trước tiên, dù nguồn gốc du nhập Anh ngữ của Việt Nam rất đa dạng với sự xuất hiện của Anh ngữ pha trộn phương ngữ Singapore, Hong Kong, Đài Loan hay châu Âu, chúng gần như không có biểu hiện hay ảnh hưởng gì đến việc đa dạng hóa phương pháp đào tạo, ngữ âm hay từ vựng tiếng Anh tại Việt Nam. Mặc khác, cân nhắc mô hình đào tạo tiếng Anh của Việt Nam, hiệu quả có thể cho là gần như bằng không. Chương trình học tiếng Anh liên kết tại một trường tiểu học ở Hà Nội. Ảnh Thu Anh/ Kinh Tế Đô Thị. Các nghiên cứu của tác giả Minh vào bên trong hệ thống đào tạo cho thấy ngoại ngữ, mà đặc biệt là tiếng Anh, đã được giới thiệu và trở thành một môn học bắt buộc của chương trình đào tạo phổ thông từ năm lớp ba. Để tốt nghiệp cấp hai, các học sinh lớp chín đều phải trải qua kỳ thi quốc gia mà trong đó tiếng Anh chiếm 90% lựa chọn ngoại ngữ của học sinh Việt Nam là một môn thi bắt buộc. Tương tự, kỳ thi trung học phổ thông quốc gia cũng là nơi mà các học sinh buộc phải vượt qua môn tiếng Anh. Tuy nhiên, gần 12 năm đào tạo Anh ngữ dường như chỉ là “cưỡi ngựa xem hoa”, không có bất kỳ tác động nào đáng kể lên năng lực tiếng Anh của học sinh sinh viên. Tác giả Minh dẫn chứng, vào năm 2008, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Quyết định 1400/QD-TTg nhằm phê duyệt Chương trình Ngoại ngữ Quốc gia hướng tới mục tiêu 2020 National Foreign Language Program – NFLP 2020. Trong đó, ngân sách lên đến 500 triệu USD được sử dụng nhằm hướng đến kết quả là tất cả học sinh rời hệ thống giáo dục phổ thông đều có một kiến thức tốt về Anh ngữ trong lý thuyết lẫn thực hành. Tuy nhiên, hơn 85% nguồn tài chính trên được dùng để… “đào tạo lại” các giảng viên Anh ngữ trong hệ thống giáo dục phổ thông vốn bị cho là có năng lực dưới chuẩn trung bình. Trong khi đó, các nỗ lực xem xét lại chương trình đào tạo, quy chuẩn hóa và đa dạng hóa phương pháp giảng dạy ngoại ngữ, tăng cường kết hợp… lại nhận được rất ít sự chú ý. Quan trọng hơn, việc áp đặt 400 giờ đào tạo nâng cao cho các giáo viên Anh ngữ, vốn vẫn phải song song hoàn thành các nghĩa vụ giảng dạy thông thường, càng khiến cho nỗ lực chấn chỉnh chương trình đào tạo ngoại ngữ tại Việt Nam không đạt được hiệu quả gì đáng kể. Như dự đoán, trong năm 2013, các bài kiểm tra năng lực cho thấy vẫn có tới giáo viên Anh ngữ dưới chuẩn yêu cầu. Tình hình không hề thay đổi trong bài kiểm tra hai năm sau đó. Đến năm 2018, theo các đánh giá khách quan từ những học giả Việt Nam, NFLP 2020 chính thức phá sản. Chính phủ Việt Nam hiện nay đã gia hạn mục tiêu từ năm 2020 sang năm 2025. Tương tác và thái độ đối với Anh ngữ tại Việt Nam Một điểm trừ của nghiên cứu theo người viết, là tác giả chỉ dừng lại ở mức độ quan sát và cảm nhận, hơn là có một phương pháp nghiên cứu sáng tạo và hiệu quả hơn để đánh giá việc sử dụng Anh ngữ trong các hoạt động đời sống thường ngày tại Việt Nam. Tuy nhiên, những đánh giá – tổng hợp của Minh cũng đáng xem xét và cân nhắc về thực trạng áp dụng Anh ngữ tại Việt Nam. Các bạn trẻ tại Việt Nam ở các thành phố lớn chủ động giao tiếp tiếng Anh với người nước ngoài. Ảnh Thanh Niên. Ví dụ, Minh cảm thấy rằng giới trẻ Việt Nam tại hai thành phố lớn là Hà Nội và Hồ Chí Minh đã đủ mức độ thông thạo để vượt qua các cuộc trò chuyện với du khách nước ngoài liên quan đến hoạt động mua bán lẻ và dịch vụ. Ngoài ra, tiếng Anh cũng được xem là mang lại cho người sử dụng địa vị xã hội cao hơn. Vì vậy, thanh thiếu niên Việt Nam thường chuyển đổi qua lại giữa việc sử dụng tiếng Anh và tiếng Việt trên mạng xã hội. Liên quan đến vốn từ có gốc Anh ngữ, từ giai đoạn trước 1975, “mít-tinh” meeting, “ti-vi” TV hay “top” top đều đã được sử dụng như một phần ngôn ngữ bản địa. Cho đến nay, nghiên cứu chỉ ra phải có đến gần 800 từ tiếng Anh xuất hiện thường xuyên trên báo chí địa phương. “Internet”, “hot boy/girl”, “shop”, “fan”, “fast food”… phổ biến đến mức chúng hoàn toàn thay thế các từ tiếng Việt tương ứng. Tuy nhiên, thực trạng hiện tại cho thấy mô hình đào tạo không hiệu quả, việc sử dụng Anh ngữ chưa rộng rãi mà theo người viết có thể dùng cụm “chưa được bình dân hóa”. Ngoài ra, tư duy ưa thích sử dụng tiếng Anh “chính chủ”, “cao cấp” dẫn đến việc người Việt Nam kể cả các giáo viên rất khó tiếp cận tiếng Anh như ngôn ngữ đại chúng thứ hai English as Lingua Franca – ELF. Rất nhiều người Việt chưa chấp nhận sự khác biệt về phương ngữ, ngữ âm, từ vựng hay văn hóa tiếng Anh nằm ngoài hai vùng “rốn” là Anh hay Hoa Kỳ. Thay vào đó, các giáo viên gò học sinh vào việc phát âm đúng từng câu chữ theo chuẩn Anh hoặc chuẩn Mỹ, trong khi bản thân các học sinh cũng khinh thường các phiên bản tiếng Anh “không chuẩn”. Việc giới thiệu các phiên bản khác của tiếng Anh như Singlish tiếng Anh của người Singapore hay Indian-English tiếng Anh của người Ấn Độ… đều được xem là những việc không nên, có thể làm hỏng nền tảng ngôn ngữ và làm “ô nhiễm” môi trường đào tạo Anh ngữ. Theo nhiều nhà ngôn ngữ học, định kiến này dẫn đến cách hiểu sai về tiếng Anh, không chấp nhận sự thật rằng nó là một ngôn ngữ toàn cầu với vô số biến thể khác nhau. Đây là một trong những rào cản của việc phổ biến Anh ngữ và gắn kết nó với văn hóa đại chúng Việt Nam.

thực trạng tiếng anh ở việt nam